Câu chuyện lều chõng dưới triều các vua nhà Nguyễn (Kết)
Nguyễn Văn Lục
Nhưng nói cho cùng, cho dù người theo Thiên Chúa giáo có được dự thi hay không cũng chẳng thay đổi được hình ảnh số phận cả nước, của đám nhà nho thất cơ lỡ vận. Con số hơn 5000 thi đỗ có là bao trên 100 năm, thêm hay bớt vào danh sách đó có thay đổi được gì số phận đất nước?
Phía ngoài Bắc
Đất Bắc vốn xưa là đất văn học. Nói như thế chưa hẳn đúng, xưa cũng thế mà nay cũng vậy. Truyền thống văn học với thủ đô Hà Nội vẫn có đấy. Sự dời đô không thể ngày một ngày hai làm mất cái vị thế truyền thống đi được.
Nhưng người viết rảo một lượt 36 phố phường trên giấy chẳng thấy sĩ tử Hà Nội thi đỗ đâu cả. Hóa ra họ chỉ là những công tử bột chăng? Thật ra cũng có, nhưng có rải rác và ít ỏi. Ít thấy sĩ tử gốc gác phố Hàng Ngang, Hàng Đào thi đậu. Vậy thì truyền thống văn hoá đó ở đâu mà ra? Có thể nó ở sức thu hút các nơi đổ về, như nhà văn chỉ là nhà văn thật, nếu sống ở Hà Nội, viết ở Hà Nội.
Số người đỗ đạt tập trung nhiều nhất ở 14 biên trấn quanh Hà Nội mà cái trục chính là Sơn Tây, Hải Dương và đặc biệt là tỉnh Nam Định.
Tại làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định, tổng số người đỗ đạt là 62 người trong suốt hơn trăm năm triều Nguyễn. Con số lớn lắm, vì có nhiều vùng kiếm ra được một người thi đỗ cũng không có. Tỉ lệ như thế là cao nhất nước.
Cắt nghĩa về sự kiện này thì có nhiều giải thích kể là hoang đường như về tông giống, về thổ ngơi, đất đai. Nó cũng hoang đường như cách giải thích về người thi rớt ở trên.
Cách lý giải thực luận nhất là nhiều điều kiện thuận lợi tập trung vào một vùng mà những vùng khác không có được. Số các cụ đồ nho, cử nhân, tiến sĩ tập trung ở đây đông, trường học nhiều, dòng họ có người đỗ ra làm quan, rồi có tiền có của cho con ăn học, có thúc đẩy khuyến khích, có gương mẫu điển hình người đi trước để theo như cái đầu tầu, người nọ kéo người kia, cứ thế mà thi đậu.
Trung tâm thi cử lại có trường thi Nam Định ngay đó, tiện lợi đủ bề. Chỗ khác, 6000-10.000 có một trường thi, ở đây 3000 sĩ tử có một trường thi. Bấy nhiêu thứ, cái nọ kéo cái kia tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi đỗ của họ.
Xét toàn diện các triều vua nhà Nguyễn, người viết nhận ra thêm một điều là, cũng không hiểu lý do tại sao, dưới triều vua Thành Thái số người thi đậu khá cao so với các triều vua trước?
Số phận những người thi rớt
Thi đỗ thì vinh quy võng lọng. Cả làng cả huyện, cả tổng đi lên tỉnh đón quan Nghè. Võng 8 người khiêng cho quan Nghè đã đành, còn cho bà Nghè và song thân ông nghè. Vị chi là 32 người khuân cho bốn võng. Dù sao, cũng còn thong dong hơn đời Tây Sơn nhiều. Vì theo một vài sử gia tên tuổi, cứ hai người khuân một võng thay đổi nhau, đi cả ngàn cây số để đại phá quân Thanh.
Đôi khi quan Nghè cưỡi ngựa nên mới có câu, “Ngựa anh đi trước võng nàng theo sau”.
Về làng là một đám rước với cờ quạt, chiêng trống, dân làng huyện, tổng bầy hương án đón rước, rồi lễ khao vọng!
Trước đó ở triều đình thì nghi thức ban mũ áo, rồi ban yến, rồi nghi thức lạy tạ.
Vì thế, không lạ gì thói đời chỉ nói tới người thi đỗ.
Trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, có phần Khoa mục Chí, có dành riêng một mục nhan đề “Số người lấy đỗ trong các khoa”. Phần người viết, cố gắng làm sao thu tập được con số người rớt. Rớt mới là quan trọng. Rớt bao nhiêu so với đỗ.
Cái rớt đáng nói vì nó mang nhiều ý nghĩa: về thực trạng thi cử, về thực trạng xã hội, về những bất công tuyển chọn và xa hơn nữa về số phận con người.
Vào năm 1463, triều đình lấy đỗ 40 người trên số dự thi là 4400. Năm 1502, vào tháng hai, có 5000 người dự thi cử nhân, lấy đỗ 62. Năm 1514, có 5700 dự thi, con số tụt xuống còn 43.
Nhưng con số 5000 người rớt chưa phản ảnh đúng thực tế thi cử. Bởi vì đừng quên rằng, đa số thí sinh đã bị loại ngay ở quận huyện trong kỳ thi Khảo hạch. Nếu kể chung cả những ‘kỳ thi vòng loại ’ này thì tỉ lệ thi đậu sẽ là một phần ngàn.
Ngàn người lấy một. Trớ trêu là ở chỗ đó. (Phan Huy Chú, ibid., Phần Khoa Mục Chí, trang 64-67)
Thời nhà Nguyễn, chỉ riêng trường thi ở Huế, trong suốt 105 năm, có 42 khóa thi Hương, lấy đỗ tất cả được 1263 ông cử. Chia đều ra, mỗi năm có được 10 người thi đậu. (Cao Xuân Dục, ibid., tóm lược)
Con số đó quá ít ỏi so với các người đỗ tiến sĩ dưới thời Hồng Đức cách đó hơn 300 năm. Năm Hồng Đức thứ 9, tức vào năm 1478, lấy đỗ tiến sĩ 62 người, Hồng Đức thứ 15, lấy đỗ 60 người, Hồng Đức thứ 21, năm 1490, 54 người. (Phan Huy Chú, ibid., Khoa mục chí, trang 16)
Xem như thế, dưới triều Nguyễn có sự tụt hậu về số người thi đậu.
Gia Long đã biết mở nhà Quốc Học ở Huế, thiết lập các chức đốc học ở tỉnh, giáo thọ, huấn đạo ở phủ huyện. Vậy mà thi cử kết quả còn ngặt nghèo quá, rồi đã bãi bỏ chức trạng nguyên, bãi bỏ thi Hội. Mãi đến đời Minh Mạng mới cho mở lại thi Hội. Cái thói quen ngặt nghèo đó còn dây dưa đến ngày nay.
Hãy xem ông Đỗ Nhuận viết vào năm 1484:
“Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài. Trước kia 6 năm một khoa thi, nay theo chế độ nhà Chu định lệ ba năm một khoa thi. Trước kia, lấy đỗ chẳng qua vài ba chục người, nay lấy rộng người thực tài không lo bội số. Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.” (Phan Huy Chú, ibid., phần Khoa mục chí, Bài ký của Đỗ Nhuận, trang 12)
Quả là đời sau không theo kịp, nhất là dưới thời nhà Nguyễn, xét về con số người thi đậu. Nếu tính chung 32 khoá thi, từ 1807 đến năm 1858, toàn quốc có 3594 người thi đậu. Cái câu học tài thi phận, nếu dựa trên con số chẳng đúng tý nào cả.
Hậu quả từ những con số
Hậu quả thứ nhất là số người đi thi mỗi năm mỗi đông thêm, dồn cục những người thi rớt từ những khoá thi trước. Tỉ dụ năm trước có 6 vạn người đi thi, năm sau kể như vẫn con số đó thêm vào người mới và cứ thế gia tăng không ngừng.
Rớt kỳ này, thi kỳ sau, thi tiếp, có khi đi thi cả đời.
Trong thư mục của Hoàng Xuân Hãn do Tạ Trọng Hiệp soạn có nêu ra trường hợp ông Đoàn Tử Quang tuổi già đến 83 tuổi mới đậu thi Hội cùng với cụ Phan Bội Châu năm Canh Tý 1900.
(Thật sự, không thể nào có con số chính xác về nhừng người thi rót, mà chỉ có thể là con số phỏng đoán. Trường hợp ông Đoàn Tử Quang trích từ báo “Diễn Dàn”, số đặc biệt về Hoàng Xuân Hãn)
Nếu cứ cho rằng, cụ Đoàn Tử Quang bắt đầu đi thi từ năm 20 tuổi và cứ ba năm một kỳ thi, chưa kể ân khoa, cụ Đoàn Tử Quang đã dự 21 khóa thi mà không lấy gì làm bằng chứng là cụ rớt vì dốt. Cái điều trớ trêu sau đó là triều đình đã ân thưởng cái tinh thần trì chí đi thi của cụ.
Người đời sau xúm vào khen cụ như một kỳ tích trong thi cử. Thật ra phải tội nghiệp cho ông già bị kết án chung thân vào vòng lao lý thi cử. Cứ lý lẽ mà nói, đó là điều cực kỳ vô lý.
Học để làm gì, để cả đời đi thi? Ăn – học như hai nhịp của đời sống kéo lê cả đời với lo toan, không biết ngưng nghỉ, rồi ê a suốt ngày như quốc kêu đến hàng xóm sốt ruột. Giấy, quyển đã rách, đã mòn, thay mấy quyển mà người học vẫn chưa xong, cứ nhai đi nhai lại báo hại vợ con nuôi báo cô để được cái danh hão. Xem phim Tầu, thấy hình ảnh mấy cậu Tú ê a không khỏi thương cho các cụ nhà ta. Chưa ai làm cái công việc đếm tất cả số trang sách, quyển sách các cụ phải ê a xem là bao nhiêu trang so với việc học ngày nay. Ấy là chưa nói có thể cụ Đoàn Tử Quang có thể rớt. Thật ra rớt hay đỗ ở tuổi đó đều giống nhau.
Trong bia đề tên các tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái thứ 10, người viết liệt kê ra số tuổi khá chênh lệch của các vị đó như sau: Có hai người trẻ nhất đỗ năm 26 tuổi, một người 27, một người 35, một người 39, một người 40 và người già nhất 47. Độ tuổi trung bình thi đỗ là tròm trèm 35 tuổi. Nghĩa là trung bình ông nào cũng đã trải qua từ 5 đến 6 lần đi thi mới đỗ. Các cô cậu bây giờ nếu có thi rớt thì hãy nhìn gương các cụ để tự an ủi: Mình còn giỏi chán vạn.
Độ tuổi chênh lệch đó tìm thấy nhan nhản trong sách Quốc Triều Hương Khoa Lục cho thấy nhiều trường hợp ông, cha, con, cháu, bác, chú, anh em cùng thi đậu. Đó là điều bất thường không phải hay ho gì. Lạ là một điều bất thường như thế, từ xưa đến nay, mọi người từ trong nhà ra đến ngoài đường đều cho là chuyện hiếm, chuyện quý, chuyện để nêu danh, chuyện để làm gương.
Gia đình nào rơi vào cảnh ngộ bất thường, cười ra nước mắt đó sẽ được truyền tụng lưu danh. Thật ra, đáo lý ra hoặc là cha dốt, con giỏi, hoặc thi cử chả ra cái thống chế gì, hoặc là “xổ số mau lên, xổ số gần đến”.
Tỉ dụ gia đình Đặng Vũ Oánh, cha con cùng thi đậu, anh em đậu cùng khoa. Con Đặng Văn Tường, em Đặng Vũ Lễ, cháu Đặng Vũ Uyển, em họ Đặng Vũ Thực, Đặng Cao Chi, Đặng Vũ Quán. Thi cử, đỗ đạt kiểu đó, đáng lẽ là niềm vui, nỗi mừng, thì nó lại tố cáo một chế độ thi cử như một cái máy lọc người hay một máy đãi vàng. Cái thú chẳng bao nhiêu, cái thải loại thì vô vàn.
Thôi thì họ đậu, họ mừng, họ ăn khao kệ họ.
Thế còn số phận của hằng triệu người thi rớt? Sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí chỉ nói tới người đỗ tiến sĩ cũng như Quốc Triều Hương Khoa Lục chỉ nói tới người đỗ cử nhân. Tú tài là vứt đi. Đối với thời xưa, Tú tài không phải bằng cấp nên ít khi được triều đình sử dụng. Người đỗ tú tài chỉ là những người không đỗ cử nhân, nghĩa là không đỗ đủ bốn trường, chỉ đỗ ba trường.
Họ lại là thành phần chính yếu của giới nho sĩ. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, thời Gia Long có 643.706 nhà nho. Thời Minh Mạng có 770.798. Thời Thiệu Trị có 974.786, nhưng đến thời Tự Đức thì xuống còn 885.517.
Con số tụt xuống đời Tự Đức là báo hiệu cái thời suy mạt của nho học rồi chăng?
Xin nhắc lại, những con số vừa nêu trên chỉ có giá trị thuyết minh và chẳng có bằng cớ nào chứng minh được sự chính xác của chúng.
Cái còn lại là số phận những người thi rớt ra sao. Họ làm gì?
Họ làm đủ thứ nghề như thầy lang, thầy địa lý, bói toán, gia sư và cố vấn trong làng. Cộng thêm cái nghề ăn bám nữa. Nói một cách có vẻ xã hội học thì họ ở giữa, giữa nghèo và giầu, giữa quan và dân, giữa bọn người có học và vô học, giữa đạo đức và vô đạo. Hay nói theo ông Vĩnh Sinh, họ là những trí thức “đứng bên lề” (marginal), từ đó góp phần vào sự phê phán cũng như xây dựng xã hội.
Thân thể con người bình thường chia làm ba phần như người ta thường nói thì họ chia làm hai: cái đầu thuộc giới ăn học hay giới nho học, cái bụng họ đứng về người nông dân. Ban ngày họ ngâm thơ, lý lẽ sự đời, nói chuyện đại sự, nhịn ăn đến tối về nhá ngô khoai sắn như người nông dân.
Nhưng cái khổ, cái kiếp nạn của họ là ở giữa.
Trên họ không được hưởng, dưới họ phải chịu lãnh búa. Họ có cái đầu nên họ nhạy bén với những bất công, những sa đà của xã hội. Cái bụng họ đói bắt họ phải đứng về phía những người cùng thân phận là dân nghèo. Tuy vậy, họ thấm thía cái khốn khổ của túng thiếu, của bữa no bữa đói gấp hai lần người nông dân.
Họ trở thành những kẻ bất mãn, kẻ phản kháng, kẻ đối đầu thường trực.
Hãy kể xem có cuộc gọi là nổi lọan, hay phong trào, hay cách mạng, hay gì gì đó mà không có mặt họ? Lê Lợi, Tây Sơn hay Nguyễn Ánh, dưới trướng lúc nào chả có mặt một trong số bọn họ đại diện. Họ sinh ra, bị kết án, bị bắt buộc để nhìn, để hiểu hơn người, để đối đầu với những biến động của đời sống, của thời cuộc.
Cũng chỉ vì cái học dở dang đã đẩy họ đến chỗ đó. Họ làm gì khác được?
Ngô Tất Tố, trong một bài báo nhan đề “Chiếc ghế hương sư” (thầy giáo dạy trường làng) đã thành một món hàng đắt giá.
Trước đây thầy giáo làng tự mở trường, học phí lấy tùy tiện, chẳng ai tranh dành. Nhưng đến khi nhà nước muốn bảo vệ quyền lợi của hương sư, bảo đảm cho họ có số lương hàng tháng nhất định nên bắt các làng phải nộp đủ số lương hàng năm cho thầy giáo tại Nông Khố ngân hàng.
Thế là từ đó có chuyện.
Ngô Tất Tố viết, “Không ngờ vì cái quyền ấy mà chiếc ghế hương sư ngày nay có nhiều nơi đã thành một món hàng đấu giá của tổng lý và nha lại.”
Họ bỏ tiền ra nên có quyền chọn người.
Ngô Tất Tố viết tiếp:
“Các ông cựu tổng lý, các ông tân học lỡ thời, các ông nhà nho mạt vận đều tự nghĩ mình có chút học thức, các ông con một, nhà giàu cũng muốn có chút danh phẩm trong làng trong tổng, ngần ấy ông làm cho chiếc ghế hương sư trở thành cao giá.”
Do có sự cạnh tranh, nhà giáo phải đút lót, năn nỉ, khấn biếu ban Hương Hội mấy chục, hoặc sửa bữa rượu mời dân. Cuộc điều đình với nha lại nào có dễ. Dù có mảnh bằng, sức học cũng phải điếu đóm khá hậu, bấm số lương mỗi năm 120 đồng thì đã phải lo lót chạy chọt mất quá nửa rồi.
Ngô Tất Tố kết luận, “Ấy cái cảnh khó khăn cực nhục của nhà giáo ở thôn quê là thế.” (Ngô Tất Tố, Chuyện người đương thời, nxb Hội Nhà Văn, trang 142, 2005)
Những điều kiện cần để chọn hoặc không chọn một sĩ tử. Thi cử có mục đích chọn người, vì thế việc sàng lọc là điều cần thiết. Sự chọn lựa có thể dựa trên tiêu chuẩn tài năng, nhưng cũng còn các tiêu chuẩn về dòng dõi, nghề nghiệp, thuộc hoàng tộc, hay đạo đức và cuối cùng tôn giáo nữa.
Năm 1442, nhà vua đưa ra luật lệ cấm hai loại người sau đây không được đi thi:
- Thứ nhất, loại người bất hiếu, bất mục, lọan luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi.
- Thứ hai, những người làm nghề hát xướng, nghịch đảng và có tiếng xấu thì bản thân không được thi.
Trong việc thi cử mà nếu gian lận thì suốt đời không đuợc thi.
Đến thi Hội mà gian lận thì phải xử tội đồ, và suốt đời không được đi thi và không được bổ dụng. Nhà vua phán:
“Phép cấm không nghiêm thì không trừ được thói gian dối, chọn lọc không tinh thì không lấy được người thực tài.” (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, phần Khoa mục chí, trang 14)
Phép chọn người dựa trên tiêu chuẩn đạo đức kể cũng sai.
Vì thế, có trường hợp như ông Đào Duy Từ (1572-1634), vì là con một nhà hát bội nên đi thi hương đã bị đánh hỏng. Ông phẫn chí đã rời bỏ quê cha đất tổ ở Đàng Ngoài, thuộc Chúa Trịnh để đi vào Đàng Trong của Chúa Nguyễn để tìm đường tiến thân. Kết quả ông đã thi đỗ ra làm quan.
Đến năm 1751, vì có nhiều sĩ tử gian lận mà thi đỗ, nhà vua ra lệnh bắt thi lại tất cả các cống sĩ. Minh Vương sai Trần Danh Ninh làm điền cử thi lại các cống sĩ, hỏi nhiều câu thâm thuý, các cống sĩ bị đánh hỏng đến quá nửa. Phần các viên đề điệu, giám khảo đều bị giáng hoặc bãi chức. (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, phần Khoa mục chí, trang 31)
“Lại đến năm 1774, triều đinh biết rõ nhiều tệ hại trong thi cử, đáng đỗ mà đánh hỏng, đáng hỏng mà lấy đỗ. Một lần nữa bắt thi lại học trò các xứ, đồng thời giáng chức Phủ Doãn và hai ty là bọn Lê Doãn Bưu nặng nhẹ khác nhau.” (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, phần Khoa mục chí, trang 36)
Người Thiên Chúa giáo và chuyện thi cử
Theo tôi, thời Nguyễn Gia Long, chưa có lệnh cấm đạo nên chắc hẳn cũng có người theo đạo được học và thi đỗ. Nhưng ai là người được thi và đỗ thì bản thân người viết chưa có tài liệu chính xác về vấn đề này.
Chỉ biết chính xác là kể từ khi có lệnh cấm đạo thì người theo đạo không được phép đi học và cũng đương nhiên không được phép dự thi. Không lựa chọn sĩ tử vì lý do tôn giáo.
Đây là một vấn đề ít được để ý nói tới. Có hai cách để tiếp cận vấn đề này: Một là dựa vào các chỉ dụ cấm đạo, các tài liệu sử. Hai là dựa vào sự tìm hiểu thực tế các làng công giáo.
Cách tiếp cận thứ nhất. Nội dung hoà ước năm Nhâm Tuất, 1862, có 12 điều khoản, trong đó có điều khoản cấm người có đạo Thiên Chúa giáo dự thi hay giữ các chức vụ hành chánh. Trong cuốn Sử Ký Đại Nam Việt Quốc Triều, trích lại trong tài liệu tham khảo của Trường đại học tổng hợp Tp HCM, trang 139, có ghi lại như sau theo Nguyễn Nhã:
“Khi Tây Sơn khởi nghĩa thì hồi đầu người có đạo Thiên Chúa giáo được yên lành. Bà dì và nghi ngờ cả mẹ Nguyễn Nhạc cũng theo đạo Công giáo. Quang Trung chưa hề cấm đạo. Sang đến năm 1789, vua Cảnh Thịnh mới chính thức giáng chỉ cấm đạo vì sợ những người Công giáo làm nội ứng cho Nguyễn Ánh. Thấy vậy Nguyễn Ánh mừng rỡ nói: “Đã cấm đạo thì mất nước chẳng sai.” Còn phần Nguyễn Ánh thì chẳng cấm, ai vô đạo thì mặc ai. Cuốn sách ghi như sau, “Vua Gia Long chẳng binh đạo là bao nhiêu … Khi vua ra Kẻ chợ thọ phong, thì giáng chỉ mới, chẳng cấm đạo tỏ tường, nhưng mà nói phạm đến sự đạo, cùng chê kẻ có đạo nhiều điều nặng lắm…”
Cho nên việc cấm đạo và cấm người theo Thiên Chúa giáo thi cử chỉ bắt đầu ở thời Minh Mạng.
Một sắc dụ cấm đạo thời Minh Mạng ban hành năm 1833. Đến Tự Đức ban hành 14 chỉ dụ cấm đạo. Đó là những giai đoạn đen tối của lịch sử Thiên Chúa giáo tại Việt Nam.
Theo Hoàng Lại Giang trong “Trương Vĩnh Ký – Bi kịch muôn đời” viết lại về trường hợp bố của Trương Vĩnh Ký làm lãnh binh khi trở về họ đạo Cái Mơn viết lại như sau:
“Vua Minh Mạng đã bộc lộ thái độ thù hằn sâu sắc đạo Gia Tô! Hai chỉ dụ sát tả năm 1883 và 1886 của nhà vua đã cho con thấy trước rằng nhà vua sẽ không từ một sự tàn bạo nào để tiêu diệt cho đến tận gốc rễ cái đạo Thiên Chúa này. […] Cuối cùng thì ông cũng đã trở về vì kiệt sức do bệnh tật và buồn lo. Ông trở về khi làng mạc đã thành tro than. 20 người bị chặt đầu, bị treo cổ, bị cột đá bỏ sông Cổ Chiên, 3 người bị lăng trì. Từng mảng thịt bị xẻo ra khỏi cơ thể và ném xuống rạch Cái Mơn.”
(Hoàng Lại Giang, Trương Vĩnh Ký – Bi kịch muôn đời, trang 19)
Khủng khếp hơn, xin đọc:
“Kinh thành ngày 5-6-1838
Trẫm truyền:
…Các khanh hãy ra tay đánh đập mà không phải thương tiếc, hãy tra tấn cực kỳ khủng khiếp, hãy giết chết đi bằng mọi cách những kẻ từ chối đạp lên cây thập ác! Các khanh phải biết rằng sự từ chối ấy đủ quy vào tội phản nghịch. Không cần phải có hình thức tòa án nào cả, các khanh hãy cầm lấy rìu, hãy cầm lấy gươm đao hay tất cả những gì các khanh có trong tay mà tiêu diệt những tên mù quáng, những tên cứng đầu, cứng cổ, không để cho thoát một tên nào.” (Hòang Lại Giang, ibid., trang 29)
Nhưng từ Hiệp Ước Giáp Tuất 1874 thì đã có sự thay đổi. Nội dung trong hiệp ước có khoản 9 viết:
“Hoàng Đế Đại Nam phải để các giáo sĩ tự do giảng đạo Gia Tô… Giáo hữu được dự các kỳ thi và được bổ nhiệm vào các cơ quan chính quyền như mọi tín đồ của các tôn giáo khác.”
Nhưng trên thực tế, không có dấu hiệu nào cho thấy tinh thần hiệp ước này được các quan lại địa phương thi hành.
Trường hợp Nguyễn Trường Tộ mà theo nhiều tác giả cho thấy ông sống ở thời Tự Đức, vào năm 1858 ông chừng 30 tuổi, mà sức học chỉ về Hán văn thôi đã ngang tầm với các nho sĩ, nếu không nói là hơn. Theo ông Văn Tân, thời Tự Đức giáo dân bị phân biệt đối xử và bị gọi là “dĩu dân”, tức dân xấu, Nguyễn Trường Tộ cũng bị cấm không được đi thi. Mặt khác, Ngô Tất Tố vì con đường cử nghiệp bị tắc nghẽn lại có cơ hội học và tiếp xúc với văn hóa Tây Phương để trở thành người hữu dụng đề ra những quốc sách cho triều đình.
Để được rõ hơn, chúng ta xem những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ nói gì về thời kỳ đó.
Chỉ có hai bài trực tiếp đề cập đến vấn đề tôn giáo trong di thảo 2 và 14.
Trong Di Thảo số 2. Bàn về tụ do tôn giáo. (Giáo môn luận), viết năm Tự Đức thứ 16, ngày 29-3-1863.
Biện luận của Nguyễn Trường Tộ sắc bén và xem ra dám nói, dù đang trong thời kỳ cấm đạo. Ông viết:
“Từ xưa đến nay, trên mặt đất lớn lao này, có nhiều đạo khác nhau đã được thành lập ở nhiều nơi. […] Giáo dân cũng là người trong nước, đều là người cả cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan nhau, vui buồn liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia lại yên được sao? Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau thì toàn thân cũng không yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt bỏ đi thì đau, huống chi là tay chân hữu dụng. […] Phàm có vạn thứ không giống nhau thì gọi là giàu, không cái gì không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chõi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính tình khác nhau mà hợp được làm một để xử dụng gọi là giỏi.” (Trương Bá Cần “Nguyễn Trường Tộ, Con người và Di thảo”, trang 116-117)
Trong đó có đoạn viết về tình hình lương giáo ở Nghệ An, ông viết:
“Cho nên tôi cứ nói ra không sợ oán trách, triều đình có chiếu lệnh điều hòa lương giáo, thì các phủ huyện giữ kín không chịu thông tri ra, giáo hữu chỉ nghe phong phanh mà thôi…tuy có đại ân mà dân chẳng được hưởng tý nào.” (Trương Bá Cần, ibid., trang 181)
Tình trạng lương giáo trở thành mối tranh chấp thù hằn đến ác liệt, nói chi đến truyện thi với cử, xin được viết ra đây:
“Đúng như đạo dụ của Thánh Thượng trước đây có nói “giáo dân tỉnh Nghệ hơn 8 vạn, trong đó có nhiều tay không vừa, trừ phi có chiếu chỉ rõ ràng của Triều Đình mới không dám kháng cự. Còn giữa dân với dân thì như nhau cả, nếu bức bách họ làm sao họ chịu yên được.” (Trương Bá Cần, ibid., trang 182)
Ở một đoạn trước đó, Nguyễn Trường Tộ mô tả trực tiếp cảnh lương-giáo như sau:
“Hiện nay ở tỉnh Nghệ hai bên lương giáo lòng đang sôi sục. Một bên nói không thể nào chung sống, phải giết cho hết tiệt mới thôi. Một bên nói con thú mà bị khốn quẫn còn cắn càn huống chi là con người? Nếu bên kia không để cho cùng sinh cùng dưỡng, thì bên này cũng không để bó tay chịu troi. Nhà nào ngõ nào cũng xôn xao bàn tán chuyện đó. Tôi rất lấy làm lo ngại mà không có cách nào giải quyết. Bởi vì sĩ phu trong tỉnh hạt có nhiều ý kiến khác nhau. Đã nói ra khó với lại được. Hơn nữa sự thù hằn này đã sâu sắc, việc làm ác độc này đã kéo dài, lòng không sao yên được. Cho nên không ai chịu tự giải thích cho mình, cũng không chịu giải thích cho người khác.” (Trương Bá Cần, ibid., trang 18).
Điều đó chỉ ra rằng từ luật lệ thành văn đến thi hành trong thực tế lại là chuyện khác.
Ngay cả dù có điều khoản 9 đi nữa, vị tất các quan đã thi hành nghiêm chỉnh cho phép người Thiên Chúa giáo được đi học chữ nho và nhất là được dự thi. Điều đó cho thấy hiển nhiên là người Thiên Chúa giáo bị loại, cấm không được dự các kỳ thi của triều đình Huế. Để kết luận về điểm này, xin mượn lời của Nguyễn Trường Tộ một lần nữa. Trong bài Giáo môn luận, ông viết:
“Giáo dân cũng là người trong nước, đều là người cả, cũng là dân của trời, sự ăn ở có liên quan nhau, vui buồn có liên quan nhau. Lẽ nào bên này động mà bên kia yên được sao. Một nước ví như một thân thể. Một chỗ bị đau thì toàn thân cũng không yên. Một cục thịt thừa, một ngón tay đeo thật hết sức vô dụng thế mà cắt bỏ đi thì đau, huống chi là chân tay hữu dụng.” (Trương Bá Cần, ibid., trang 116)
Lối tiếp cận thứ hai là dựa vào sự tìm hiểu các làng theo đạo Kitô.
Nhiều xứ đạo miền Trung và nhất là miền Bắc cho thấy trong các làng này chưa bao giờ có người thi đỗ làm quan. Vì không có đủ tài liệu về danh sách các làng trên toàn quốc, nhưng người viết bài này dựa theo lối “biết đến đâu viết đến đó”, biết đến đâu làm tới đó cũng đã đưa ra được một cái nhìn về tình trạng này.
Thoạt tiên, người viết bắt đầu lấy làng Ngọc Cục và Hành Thiện làm điểm trụ.
Ngọc Cục, một làng toàn tòng, chỉ cách làng Hành Thiện một con sông. Địa lý gần nhau như thế, qua lại hai bên dễ dàng, điều kiện để đi học cũng rất thuận lợi. Vậy mà Ngọc Cục không có một ai thi đỗ làm quan.
Người viết dò tìm tên làng Ngọc Cục trên danh sách sĩ tử đã đỗ ở trường thi Nam Định trong suốt hơn trăm năm. (Nên nhớ, luật lệ là ở đâu thi ở đó.) Kết quả không có tên làng Ngọc Cục. Ngọc Cục tiếp giáp với Hành Thiện. Vậy mà một làng đỗ quá nhiều, làng kia không đỗ người nào; từ đó mở ra hướng tìm hiểu các làng giáo dân Kitô khác. Kết quả cũng tương tự.
Hơn cả trăm năm không có được một ông tiến sĩ, nhưng làng Ngọc Cục lại có đến 6 thánh tử đạo cùng một năm. Đó là:
1. Phê-rô Đa, Giáo Dân, sinh tại Ngọc Cục, Nam Định. Tử Đạo ngày 17.6.1862 tại Nam Định, bị thiêu sống đời vua Tự Đức
2. Đa-minh Mạo, Giáo Dân, sinh năm 1818 tại Ngọc Cục, Nam Định. Tử Đạo ngày 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
3. Đa-minh Nguyên, Giáo Dân, sinh năm 1802 tại Ngọc Cục, Nam Định. Tử Đạo ngày 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
4. Đa-minh Nhi, Giáo Dân, sinh tại Ngọc Cục, Nam Định. Tử Đạo ngày 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
5. An-rê Tường, Giáo Dân, sinh năm 1812 tại Ngọc Cúc, Nam Định. Tử Đạo 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
6. Vinh-sơn Tường, Giáo Dân, sinh năm 1814 tại Ngọc Cục, Nam Định. Tử Đạo 16.6.1862 tại Làng Cốc, bị xử trảm đời vua Tự Đức.
( Gs. TRẦN DUY NHIÊN – Gs. ĐỖ HỮU NGHIÊM sưu tập, “SƠ LƯỢC VỀ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM”)
Rất có thể phần bài viết này sự sai sót là khó tránh được. Nhưng dù sao đi nữa, có thêm có bớt một vài tín hữu Thiên Chúa giáo đỗ hay không đỗ cũng không có nghĩa lý gì so với hơn 5000 người đã thi đỗ và ra làm quan, ngay cả giả sử thời đó chỉ có 3-5% dân số Việt Nam là tín hữu Kitô giáo.
Nhưng dù việc tìm hiểu có tính cách giới hạn, điều đó cũng chỉ ra rằng thật khó, nếu không nói là rất hiếm người theo đạo Thiên Chúa có cơ hội thi đỗ và ra làm quan. Họ bị đặt ra ngoài lề của dân tộc; họ như một thứ công dân bậc hai, suốt đời không bao giờ có cơ hội ngóc đầu lên được.
Chính sách đó của triều đình nhà Nguyễn có phần khắc nghiệt hơn cả đối với chính sách ngu dân của chế độ thực dân.
Việc tìm hiểu vì thế vượt ra khỏi giới hạn một nhận thức sách vở, nó đặt ra những vấn đề mới về trách nhiệm của triều đình Huế và giới sĩ phu thời bấy giờ! Người viết chỉ trình bầy sự việc trong giới hạn hiểu biết của mình.
Nhưng nói cho cùng, cho dù người theo Thiên Chúa giáo có được dự thi hay không cũng chẳng thay đổi được hình ảnh số phận cả nước, của đám nhà nho thất cơ lỡ vận. Con số hơn 5000 thi đỗ có là bao trên 100 năm, thêm hay bớt vào danh sách đó có thay đổi được gì số phận đất nước?
© DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh họa.
TRÍ THỨC, KHOA BẢNG, VÀ TÀI NĂNG
Nhà văn Ngô Tất Tố viết cuốn tiểu thuyết Lều Chỏng, đó là một tâm huyết sáng suốt. Nó ghi lại chuyện khoa cử của nước nhà thời xưa, chưa có cuốn tiểu thuyết kiểu lịch sử nào qua mặt được. Nhưng đồng thời nó cũng cho thấy nhiều tính cách lạc hậu của một thời xa xưa về mặt xã hội và đời sống bên cạnh những nét son tích cực của nó về một quá khứ huy hoàng của một xã hội chuộng học vấn thời xưa cũ.
Vậy ý nghĩa về tri thức và trí thức của người Việt thời xưa như thế nào là điều cũng cần nên xem xét. Xã hội nước ta ngày xưa chuộng văn hóa, đó thật sự là điều hữu lý và sáng suốt. Dĩ nhiên trong văn hóa có kéo theo hay đi kèm theo văn học, nhưng nếu chỉ hiểu duy nhất là văn học thì không đúng, vì phạm vi hay phạm trù văn hóa rộng hơn và bao quát hơn văn học. Chính chuộng văn hóa mà thành ra cũng chuộng thi cử và khoa bảng, bởi đó là tiêu chí duy nhất để phân biệt và lựa chọn người tài năng lúc đó mà không còn cách nào khác. Tất nhiên trong ý nghĩa tích cực đó cũng không tránh được các tiêu cực đi kèm theo, nhưng tiêu cực là do cá nhân những con người gây nên vì núp bóng và lợi dụng nó, không phải chủ trương chung của các triều đại quân chủ nước ta ngày xưa là sai. Khoa bảng trở thành thứ hư danh của một số người, tài năng và thiện chí giúp dân giúp nước không có nhưng chỉ dùng khoa bảng để leo lên bục công danh giàu sang phú quý thực chất chỉ là ăn hại có khi lại thành rác rưởi của xã hội.
Đương nhiên nếu trí thức được hiểu là khả năng tri thức, nhận thức mặt này hay mặt khác vượt lên những người khác trong xã hội thì thời nào cũng đúng, ở đâu cũng đúng và lúc nào cũng đúng. Vậy thì chọn học hành, khoa bảng để lấy trí thức, để lựa chọn nhân tài cũng chẳng có gì sai. Vấn đề là học hành đào tạo thế nào, thi cử thế nào, tuyển chọn và sử dụng thế nào vậy thôi. Đó là lý do các kỳ thi xưa không chỉ có văn chương thi phú vô bổ mà còn có cả các nội dung kinh nghĩa là nói về những đạo lý ở đời cùng các năng lực kinh bang thế thế phò vua giúp nước. Tất nhiên qua những bài kinh nghĩa thì năng lực hay tài năng của sĩ tử đều được phát lộ rõ tất cả. Những người chỉ có học thụ động mà không có khả năng phát huy hướng này hay hướng khác, nhiều lắm chỉ đậu tú tài, dễ nào đậu được cử nhân hay vào thi hội để lấy phó bảng, hoàng giáp, tiến sĩ hoặc trạng nguyên. Cái học ngày xưa vẫn phát hiện và phát huy được nhân tài chính là thế. Nếu văn chương thi phú biểu hiện cho khả năng nhà Nho nói chung, thì ít ra nó cũng nêu cao các tấm gương văn học tại địa phương, còn nhiều nhất lại giúp vua trong ngoại giao, đi sứ hay trình bày các văn sách, các tấu biểu mà nhà nước khi ấy luôn luôn cần đến. Đó là lý do tại sao các văn bia tiến sĩ lại được coi trọng ngay từ thời triều Lê, bởi vì nó thể hiện trình độ nhân văn, trình độ văn hóa nói chung nơi con người mà không phải chỉ thuần túy là khoa bảng hay danh vọng hoàn toàn hình thức.
Thật vậy trong các triều đại khi xưa, thường nhà Nho hay thư sinh trói gà không chặt, nên chỉ các võ tướng mới thường cáng đáng việc xã hội trong thời loạn. Nhưng khi thời bình trở lại, võ tướng không còn mấy ý nghĩa nữa, do vậy văn hóa, văn học, khoa bảng mới trở nên hữu ích và đắc dụng hơn cả. Đó cũng là quan điểm chính trị và văn hóa đúng đắn cần thiết đâu có gì sai trái để phải chê bai. Bởi nếu không có những người như Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung thì lấy ai cứu nước, đánh đuổi ngoại xâm, và ngay cả thời chiến cũng cần những đầu óc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Thiếp, chứ đừng nói tới thời bình những người như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thân Nhân Trung không đều là những yếu tố quan trọng của nước nhà không thể thiếu. Sự hài hòa giữa võ nghiệp và văn hóa của nước ta trong các thời kỳ xa xưa đều là như thế.
Chỉ tiếc quan niệm văn hóa thời xa xưa vẫn chỉ hướng về ý nghĩa lý thuyết mà ít hướng đến thực dụng, nhất là khoa học kỹ thuật kiểu phương Tây thì không hề có. Đó chính là nguyên do mất nước thời thực dân Pháp đến xâm lược nước ta là như thế. Những giáo điều kiểu “Tử viết” thì còn làm sao chọi lại được súng đồng đạn sắt, ý thức hệ phong kiến quân chủ thì làm sao địch lại được với đầu óc thực nghiệm khoa học kỹ thuật vào thời đó được. Kinh nghiệm lịch sử chua cay thời đó là như thế. Ngay như nhận thức luận về triết học kiểu phương Tây thì nước ta khi ấy cũng chưa hề có. Nước ta chỉ mới có quan niệm về trời đất kiểu Trung Hoa hay thần linh kiểu Ấn độ, chưa bao giờ biết nhận thức luận, hữu thể luận, hay ngay cả tôn giáo kiểu độc thần, kiểu ngôi vị mà người phương Tây sau này vẫn có. Đó là lý do bài đạo Thiên chúa giáo thời chúa Nguyễn không những chỉ vì lý do chính trị mà cả lý do văn hóa lạ lẫm là điều hoàn toàn dễ hiểu. Chống tà đạo Tây dương theo cách hiểu thời đó thật ra ích lợi về chính trị chưa thấy đâu mà mặt tai hại là thực dân Pháp lấy cớ để vào xâm lược đất nước chỉ là sự nhãn tiền mà ai cũng biết.
Nên nói chung lại, chính sách đất nước trọng khoa bảng, văn hóa và chuộng tài năng của người xưa hoàn toàn không sai mà lại sáng suốt cần thiết và hữu dụng. Thế nhưng cái sai là cái sai của những cá nhân con người ít tài năng mà lại lợi dụng nó. Việc các tiêu chuẩn cấm đoán thi cử tuy không phải hoàn toàn hữu lý sáng suốt, nhưng thực chất cũng tránh được số hạn hẹp mặt đạo đức cần phải thừa nhận. Nhưng cái sai nghiêm trọng nhất là cái sai hiểu về văn hóa theo kiểu cổ xưa và lạc hậu. Bởi nước ta khi đó chỉ biết noi theo văn hóa Trung Hoa mà không còn biết văn hóa nào khác, cụ thể là văn hóa thực nghiệm và khoa học kỹ thuật của phương Tây. Nên thất bại cay đắng của Cao Bá Quát, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ v.v… đều chính là như thế. Đó là lỗi lầm chỉ hiểu văn hóa theo kiểu từ chương lý thuyết mà không hiểu được tới chỗ văn hóa còn là thước đo của trí tuệ và của khám phá thế giới thực tại. Khoa học kỹ thuật không có hay bị coi nhẹ, triết học theo nghĩa bao quát tư duy cũng không có mà chỉ biết thuộc lòng đạo lý và tư tưởng siêu hình một chiều và trừu tượng của Đông phương mà Trung Hoa và Ấn độ là các trung tâm tiêu biểu thì còn làm sao đối đầu với thế giới phương Tây đang hồi đi lên phát triển khi ấy.
Vậy kết luận lại, chính sách trí thức, khoa cử và tài năng thì chẳng lúc nào hỏng. Bởi vì ba tiêu chí đó dùng để lựa chọn sự đào tạo và sử dụng cho các lợi ích xã hội thì lúc nào cũng phải đi theo với nhau. Nhưng làm sao để nó tránh bị hiểu sai và bị lợi dụng mới là điều thiết yếu đáng nói. Sự lợi dụng của con người luôn luôn là lẽ đương nhiên, nhưng tránh được mọi lợi dụng đó mới là chính sách thông minh và ý nghĩa khoa học. Ngay cả thời đại tiên tiến ngày nay cũng thế, mọi cái học vẹt thì đều không thể mang lại trí thức đúng nghĩa, mọi cái khoa cử theo kiểu đào tạo rập khuôn nô lệ thì cũng thế, mọi tài năng theo kiểu hồng hơn chuyên, thuần thành hơn là tư duy độc lập sáng tạo và khoa học khách quan thì cũng thế. Nói chung mọi thứ ý thức hệ lạc hậu đều làm cho xã hội và lịch sử trì trệ cùng lạc hậu, thời xưa cũng thế và thời này cũng thế. Mà lạc hậu thì thường phản động hay cũng chỉ đồng nghĩa với phản động đều luôn là như vậy. Đồng thời nói rộng thêm ra, phải chăng phần nào điều ấy cũng phản ảnh tâm lý thụ động, tiêu cực, chuộng bề ngoài hình thức, ít có tinh thần dấn thân vào các khó khăn mà người Việt Nam vẫn có hay không, là điều cũng cần suy nghĩ.
ĐẠI NGÀN
(04/10/16)