Ông Drosten, virus này từ đâu đến?

Marie–José Kolly, Angela Richter và Daniel Ryser | Trà Mi

Hầu như không ai biết nhiều về virus corona hơn chuyên gia về virus người Đức Christian Drosten. Ông nghĩ gì về giả thuyết Sars-CoV-2 thoát ra từ phòng thí nghiệm, tại sao khả năng miễn dịch cộng đồng không có hiệu quả ở người và câu trả lời của ông cho câu hỏi quan trọng nhất: Đại dịch đã thực sự kết thúc chưa?

Coronavirus đã là chuyên khoa của Christian Drosten trong 20 năm – tuy nhiên: “Tôi rất ngạc nhiên với Sars–2 hiện nay”.
Ảnh: Jacobia Dahm/Redux/laif

Sau một năm đại dịch, sự kết thúc dường như đã ở trong tầm mắt, ít nhất là ở châu Âu: Ngày càng có nhiều người được chủng ngừa hoặc miễn dịch, số người mắc bệnh ngày càng giảm. Người đã đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra virus Sars đầu tiên vào năm 2003 nhìn lại đại dịch này như thế nào?

Chúng tôi đến Berlin để gặp Christian Drosten, giáo sư tại Đại học Y khoa Charité của thành phố; Drosten là người đã nghiên cứu về coronavirus hai mươi năm qua và đã trở thành một trong những tiếng nói nổi tiếng nhất ở Đức trong năm rưỡi qua nhờ podcast “Coronavirus Update” hàng tuần của NDR. Người đàn ông 48 tuổi trả lời câu hỏi tại sao xảy ra đại dịch này? Ông ấy là người đã chế tạo xét nghiệm Covid đầu tiên trên thế giới gần như chỉ sau một đêm.

Vào ngày phỏng vấn, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã triệu tập một ủy ban điều tra xem liệu virus coronavirus có tình cờ thoát ra khỏi một phòng thí nghiệm của Trung Hoa hay không. Chuyên gia này nghĩ thế nào?

Nhân viên tiêp tân hỏi, “Quý vị có hẹn trước, hả?” Chúng tôi lấy giấy tờ cá nhân với giấy phép của Charité, kết quả đã xét nghiệm PCR và miễn trừ cách ly của tạp chí Republik, nhưng trước khi chúng tôi có thể giao tất cả giấy tờ vì đại dịch, anh ta vẫy tay mời chúng tôi vào.

Con đường dẫn đến một ngôi nhà nhỏ bên cạnh tháp chính màu trắng của Charité, một tòa nhà gạch đỏ với vô số máy ảnh bao quanh. Một nhân viên an ninh khác dứng ngay trước cửa ra vào hỏi chúng tôi đang làm gì ở đây. Anh ta nói “Tầng một,”  rồi chỉ cho chúng tôi đến cửa. Một tấm biển lớn ghi: “Cảnh giác, nguy cơ lây nhiễm”.

Chúng tôi bước vào văn phòng, Giáo sư Drosten đứng dậy từ sau bàn làm việc và nói rằng chúng tôi có thể tháo khẩu trang ra, ông ấy đã được chủng ngừa hai lần.

***

Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn của Marie–José Kolly, Angela Richter và Daniel Ryser, ngày 5 tháng 6 năm 2021.

Ông Drosten, ông đã nghiên cứu về coronavirus trong mười bảy năm. Hầu hết chúng ta chỉ mới biết đến những loại virus như vậy kể từ tháng 1 năm 2020. Tại sao coronavirus lại trở thành trọng tâm trong nghiên cứu của ông?

Năm 2003, một bác sĩ ở Singapore đã nhiễm phải một loại virus không ai biết. Sau đó, Ông ấy bay đến New York, và ông ấy bị ốm ở đó. Được biết, ông ấy từng tiếp xúc với những bệnh nhân bị bệnh nặng ở Singapore. Trên chuyến bay trở về, máy bay hạ cánh xuống Frankfurt để tiếp nhiên liệu. Bệnh nhân này đã được đưa ra khỏi máy bay và được đưa vào một khu cách ly. Lúc đó tôi đang làm việc ở Hamburg tại Viện Nhiệt đới, nơi chăm sóc các bệnh truyền nhiễm nhập cảng, và vừa phát  minh được một phương pháp phòng thí nghiệm có thể xác định các loại virus chưa từng thấy trước đây. Đó là lý do tôi đi vào câu chuyện trinh thám này. Vào thời điểm đó, dịch tễ học đã cho thấy rõ ràng rằng có một việc gì đó đang xảy ra, một cái gì đó mới, có thể lây truyền và gây ra bệnh viêm phổi, nhưng không ai biết loại virus đó là gì.

Ông đã tiến hành như thế nào?

Tôi vừa ở Frankfurt để thi tiến sĩ và thăm các đồng nghiệp ở đó. Họ vừa mới bắt đầu nuôi cấy tế bào đầu tiên và đưa cho tôi những mẫu. Tôi đã áp dụng phương pháp mới, và hóa ra có sự sắp xếp chuỗi (sequences) trong đó từ một loại coronavirus chưa được biết đến.

Và đó là câu chuyện khám phá ra Sars?

Sau đó, chỉ thêm vài bước nữa cùng các đồng nghiệp từ Frankfurt mới cho thấy chính loại virus này đã khiến vị bác sĩ Singapore bị bệnh nặng như vậy. Đồng thời, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh ở Atlanta đã có thêm mẫu cụ thể từ một bệnh nhân thứ hai, một bác sĩ của WHO đã chết vì căn bệnh này trong phòng chăm sóc đặc biệt ở Bangkok. Chúng tôi đã có thể chứng minh qua một cuộc điều tra chung: hai bệnh nhân chưa bao giờ gặp nhau, nhưng đều có mối liên hệ dịch tễ học gián tiếp với Trung Hoa, nơi đã ghi nhận những đợt bùng phát dịch bệnh đầu tiên, đều bị bệnh theo cùng một cách do cùng một loại virus.

Công việc nghiên cứu tìm tòi này kéo dài bao lâu?

Công việc chính xảy ra trong một tuần.

Vào năm 2012, ông cũng đóng một vai trò quan trọng trong virus Mers coronavirus, gây ra một căn bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng thường gây thiệt mạng.

Sau đó, người ta thấy rằng cùng một căn bệnh xuất hiện thường xuyên ở các bệnh viện ở Trung Đông và được truyền đi giữa các bệnh viện. Quý vị đã thấy: có một loại virus cực kỳ chết người. Những người ban đầu bị nhiễm có thể lây nhiễm sang người khác, người này lại lây nhiễm sang người khác – trước khi virus này biến mất. Vì vậy, nó không mãi mãi lây truyền từ  người này sang người khác. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục xuất hiện. Từ đâu ra? Nó phải đến từ một loài động vật thường xuyên tiếp xúc với con người, rất có thể là một động vật ỏn nông trại.

Làm thế nào ông có thể nói như vậy?

Tất cả các loại động vật nông trại đã được xem qua. Đó không phải là một tiến trình dài.

Và làm thế nào ông có thể ‘bắt được’ virus?

Đúng như vậy. Các phòng thí nghiệm khác nhau đã hợp tác và kiểm soát tất cả các mẫu động vật nông trại ở Trung Đông đã có sẵn kháng thể. Người ta đã thấy: đó là con lạc đà. Virus này thường được những người đàn ông lớn tuổi làm việc với lạc đà mang vào bệnh viện. Nói trắng ra, ở Ả Rập Saudi,  nuôi lạc đà lấy giống là một thú vui của đàn ông.

Ông đã làm gì sau đó? Bắn tất cả lạc đà?

Điều tốt nhất là chủng ngừa virus từ ngay nguồn của nó. Bạn có thể chủng ngừa cho lạc đà. Có động vật nông trại, chúng có sẵn, chúng đang đứng xung quanh. Nhưng đôi khi lạc đà có giá bán quá cao, và chủ nhân của chúng thường không muốn chủng ngừa cho chúng: Đối với nhiều ông chủ, nếu bạn chọc kim tiêm chủng vào nó, nó giống như xe S-Class bị trầy xước. Đôi khi chuyện đó gây ra những cảm giác rất giống nhau.

Họ cho biết virus này lây truyền từ người sang người hai, ba, bốn lần. Tại sao Mers lại chết sau đó mà các coronavirus không chết?

Trước hết: một loại virus đường hô hấp như Mers, được truyền từ người này sang người khác, tất nhiên gần với đại dịch hơn nhiều so với các loại virus lây truyền từ động vật sang người khác như bệnh dại. Bệnh dại lây truyền nhiều lần từ động vật sang người, nhưng sau đó hiếm khi tiếp tục từ người sang người. Yếu tố quyết định là virus luôn thích nghi với vật chủ của chúng như Mers với lạc đà. Nếu virus muốn học cách tự truyền bệnh tốt hơn từ người sang người, thì sự thích nghi này, tức là các đột biến (mutation) tương ứng, phải xảy ra ở người. Virus không học được điều đó ở lạc đà. Vì vậy, hai, ba hoặc bốn thế hệ truyền từ người sang người ban đầu đó là hoàn toàn cần thiết. Mặc dù vậy, một đại dịch không dễ dàng xảy ra như vậy.

Tại sao?

Một loại virus chỉ mới bắt đầu đại dịch chưa có khả năng lây lan cao: một người bị nhiễm thường có nhiều khả năng lây nhiễm cho một người hơn năm hoặc mười người. Vì vậy, chỉ có một số hạn chế virus lưu hành, và do đó chỉ có một số đột biến có thể phát sinh. Những đột biến này luôn là ngẫu nhiên. Và sự trùng hợp ngẫu nhiên, như quá trình tiến hóa cho thấy, hiếm khi dẫn đến việc một sinh vật khá tối ưu trở nên tốt hơn. Virus này thường sắp tuyệt chủng ở người – trừ khi nó tạo ra các đột biến phù hợp đủ nhanh và tình cờ.

Ông nói rằng một đại dịch không dễ dàng xảy ra như vậy. Đó có phải là lý do mà dù hàng chục năm nghiên cứu về coronavirus, ông vẫn ngạc nhiên với Sars-CoV-2?

Đại dịch có thể xảy đến là điều rõ ràng đối với bất kỳ ai nghiên cứu về virus lây nhiễm từ động vật sang người. Chúng tôi đã nghiên cứu Mers trong vài năm và thấy: Loại virus này có bàn chân đầu tiên hoặc ngón chân đầu tiên trên thềm cửa. Tôi đã rất ngạc nhiên với Sars-2 hiện tại bởi vì tôi … Vâng, cuối cùng, bởi vì cho đến gần đây tôi đã sống trong ý nghĩ ngây thơ rằng chủ nhà chuyển tiếp, như đã xảy ra với Sars-1 là những con cầy hoang và lửng chó, rằng vấn đề nay trên nguyên tác được kiểm soát ở Trung Hoa.

Thực sự khá đơn giản: “Bất cứ ai không chủng ngừa sẽ bị nhiễm Sars-2” (Ảnh: 2007 tại Viện Nhiệt đới ở Hamburg). Benno kraehahn

Thực sự khá đơn giản: “Bất cứ ai không chủng ngừa sẽ bị nhiễm Sars-2”

Giáo sư Y Khoa Christian Drosten

Điều đó có nghĩa là vật chủ chuyển tiếp được kiểm soát?

Không phải như vậy mà người ta phải cho rằng dơi trực tiếp mang một loại virus như vậy đến con người. Bản thân tôi đã kiểm soát coronavirus giống Sars ở dơi trong công việc ở thực địa. Những virus Sars này trong quần thể dơi cũng được tìm thấy ở Châu Âu. Có thể thấy trong phòng thí nghiệm rằng chúng không dễ dàng chuyển từ dơi sang người. Vì vậy, người ta tự hỏi: con vật nào ở giữa? Thông thường, đây là những động vật nông trại được nhốt chung với nhau thành đàn lớn, trong đó virus có thể sinh sôi. Con người tương tác với những động vật này khác với những động vật hoang dã ở xa như dơi. Ví dụ lông thú. Chó lửng và cầy hoang có bộ lông kéo dài qua tai. Chúng la hét và gầm rú chết người, và phun ra  những hạt khí (aerosols) trong tiến trình này. Sau đó, con người có thể bị nhiễm virus. Những con vật này rõ ràng là nguồn gốc của Sars-1. Điều đó đã được khoa học chứng minh. Đối với tôi đó là một câu chuyện đã khép lại. Tôi nghĩ rằng loại buôn bán vật nuôi này đã bị dừng lại và nó sẽ không bao giờ quay trở lại. Và bây giờ Sars đã trở lại.

Bằng cách nào nó đã trở lại?

Có nhiều giả thuyết khác nhau. Đó là một chủ đề lớn khác đối với giới truyền thông hiện nay.

Có một luận điểm: Virus này có thể đã thoát ra khỏi phòng thí nghiệm. Điều này được hỗ trợ bởi thực tế là Sars-2 đặc biệt dễ lây lan cho con người. Cho đến nay vẫn chưa thể giải thích điều này xảy ra như thế nào bằng quá trình chọn lọc tự nhiên. Người ta có thể làm điều đó với Mers và Sars. Sau đó, có luận điểm cho rằng virus đã đột biến ở các nông trại lông thú của Trung Hoa. Ông Drosten, virus này từ đâu đến?

Tôi cũng đang suy nghĩ theo hướng của kỹ nghệ lông thú. Tất nhiên, có giả thuyết trong phòng thí nghiệm. Nếu quý vị nhìn chúng từ quan điểm kỹ thuật thuần túy, nếu quý vị chỉ nhìn vào bộ gen, thì đó là điều có thể xảy ra. Nhưng tôi có thể nói: Tôi biết rất rõ các kỹ thuật mà bạn cần để thay đổi một loại virus theo cách này. Nếu ai đó đã phát minh ra Sars-2 theo cách này, tôi sẽ nói rằng họ đã làm ra nó một cách khá vụng về. Nó không khó khăn như vậy.

Ý ông muốn nói gì?

Thực tế có hai thuyết về virus trong phòng thí nghiệm. Một là luận cứ ác ý cho rằng ai đó đã cố tình tạo ra một loại virus như vậy.  Thuyết còn lại  là tai nạn khi nghiên cứu, mặc dù có mục đích tốt và sự tò mò, một thí nghiệm đã xảy ra sai lầm ngoài ý muốn. Thành thật mà nói, về luận cứ có người ác ý: quý vị phải nói chuyện với cơ quan mật vụ về nó. Với tư cách là một nhà khoa học, tôi không thể đánh giá việc đó.

Thế còn tai nạn trong nghiên cứu?

Nếu bây giờ nghĩ về điều đó, quý vị muốn thay đổi một số điều: Điều đáng chú ý nhất là cái gọi là vị trí phân cắt furin, điểm phân cắt furin, một đặc tính di truyền của protein gai của virus.

Vị trí phân tách furin: Với Sars-2, nó có bảo đảm rằng virus có thể xâm nhập vào tế bào người dễ hơn không?

Đúng chính xác. Vì vậy, hãy tưởng tượng ai đó muốn xem điều gì sẽ xảy ra nếu bạn cung cấp cho một coronavirus vị trí phân cắt furin này mà bạn biết từ virus cúm: nó có khiến nó trở nên độc hại hơn không? Đối với điều này, tôi sẽ lấy virus Sars-1, ở dạng mà tôi cũng có thể thay đổi trong phòng thí nghiệm. Vì vậy, đó là một bản sao DNA. Quý vị có hiểu tôi không?

Chúng tôi sẽ cố. Hãy giải thích cho chúng tôi.

Quý vị không thể chỉ đặt một con virus vào một chiếc đĩa thủy tinh và làm một số loại thí nghiệm với nó. Việc tạo ra một bản sao DNA như thế này từ một virus cần từ hai đến ba năm nghiên cứu sinh học phân tử. Nhân tiện, các nhà nghiên cứu đã thực sự tạo ra những bản sao như vậy từ virus Sars-1 nguyên thủy. Vì vậy, nếu bạn muốn chế tạo một loại Sars-2 trong phòng thí nghiệm, bạn sẽ phải thêm các thay đổi, ví dụ như vị trí furin này, cho một bản sao Sars-1 như vậy. Để tìm hiểu, liệu sự thích nghi này có làm cho virus Sars dễ lây lan hơn không? Nhưng đó không phải là trường hợp ở đây. Toàn bộ cột trụ của 2 loại virus khác nhau: Sars-2 có đầy những khác biệt so với virus Sars-1 nguyên thủy.

Điều đó có nghĩa là gì: toàn bộ cột trụ khác nhau?

Để tôi giải thích bằng hình ảnh: Ví dụ: để kiểm soát xem liệu các điều chỉnh có làm cho virus lây lan nhiều hơn hay không, tôi sẽ lấy một hệ thống hiện có, kết hợp thay đổi và sau đó so sánh nó với hệ thống cũ. Nếu tôi muốn biết liệu radio trên ô tô mới có âm thanh tốt hơn hay không, tôi lấy một chiếc ô tô hiện có và thay cái radio cũ ở đó bằng một radio mới. Sau đó, tôi so sánh. Tôi không xây dựng một chiếc xe hoàn toàn mới cho nó. Nhưng đó chính xác là cách xảy ra với Sars-2: Toàn bộ chiếc xe là khác nhau.

Và điều đó có nghĩa là?

Ý nghĩ cho rằng nguyên nhân đại dị vì một tai nạn nghiên cứu này cực kỳ khó xảy ra đối với tôi vì nó quá cồng kềnh. Luận cứ về một mục đích ác độc do một phòng thí nghiệm của cơ quan mật vụ nào đó ở đâu đó: Nếu có gì đó, thì một thứ tương tự như vậy có lẽ sẽ không đến từ Viện Virology Vũ Hán. Đây là một viện hàn lâm danh tiếng.

Nguyên nhân nào là hợp lý nhất đối với ông?

Nuôi gây giống động vật ăn thịt. Ngành công nghiệp lông thú.

Tại sao?

Tôi không có bằng chứng cho điều này, ngoại trừ nguồn gốc đã được chứng minh rõ ràng của Sars-1, và đây (Sars-2) là một loại virus cùng loài. Virus cùng loài làm những việc giống nhau và thường đến từ cùng một nguồn. Trong Sars-1, điều này đã  được khoa học chứng minh và ghi lại, vật chủ chuyển tiếp là chó lửng chó và cầy hoang. Điều đó đã chắc như vậy. Cũng chắc chắn rằng lửng chó được sử dụng nhiều trong ngành kỹ nghệ lông thú ở Trung Hoa. Nếu bạn mua một chiếc áo khoác có cổ lông ở bất cứ đâu thì đó chính là long lửng chó Trung Hoa, hầu như không có ngoại lệ. Và bây giờ tôi có thể nói với bạn rằng không có nghiên cứu nào trong các tài liệu khoa học – không có nghiên cứu nào – làm sáng tỏ câu hỏi liệu đàn lửng chó nuôi gây giống hoặc một đàn dộng vật ăn thịt khác, ví dụ như chồn, mang virus này, Sars-2, ở Trung Hoa.

Một con lửng chó (racoon dog, hay chó gấu trúc, hay còn gọi là tanuki, Nyctereutes procyonoides), trưng bày tại Vườn thú Chapultpec ở Thành phố Mexico,vào năm 2015. Ảnh: Alfredo Estrella/AFP/Getty Images/TNS

Làm thế nào có thể như thế được?

Tôi không thể trả lời điều đó. Tất cả những gì tôi có thể nói với quý vị là tất cả những gì quý vị phải làm là đến đó, ngoáy tăm bông và xét nghiệm PCR.

Tại sao không làm điều đó? Đó không phải là điều cần thiết để biết làm thế nào virus đến với con người hay sao?

Không có nghiên cứu nào công bố về điều này. Trong năm 2003 và 2004, đã có những nghiên cứu lớn thực hiện ở Trung Hoa và đã chứng minh mối liên hệ giữa lửng chó và cầy hoang đối với Sars-1.

Chúng tôi có hiểu ông đúng không: Thế giới bị đảo lộn trong một năm vì đại dịch, tất cả chúng ta đang cố gắng hết sức để làm cho loại virus này biến mất – nhưng ông thậm chí còn không đi đến nơi có thể là nguồn xuất phát và nghiên cứu sao?

Có một phái đoàn của WHO đến thăm Trung Hoa. Nhưng đàn nuôi lấy giống phân bố ở nhiều vùng trong cả Hoa Lục, tất nhiên phải được xem xét một cách có hệ thống. Người ta sẽ phải lấy mẫu trên khắp mọi miền. Tôi không biết các nhà khoa học Trung Hoa có làm như vậy không. Không thể loại trừ nghiên cứu này được. Tôi không biết liệu sẽ không có một nghiên cứu nào ra mắt vào tuần tới sẽ làm rõ điều này hay không. Nó có thể là bất cứ thứ gì. Tôi chỉ có thể nói với quý vị: Tôi không có thông tin về điều này.

Tại sao ông không đến Trung Hoa với ủy ban này của WHO?

Về nguyên tắc, tôi sẵn sàng tham gia. Trong trường hợp cụ thể, WHO, cơ quan đề xướng công tác này, đã không liên lạc với tôi.

Quay lại nông trại lông thú: ông có thể giải thích cách hoạt động của nó không? Theo ông, làm thế nào mà Sars-2 từ dơi thông qua vật chủ chuyển tiếp, lửng chó Trung Hoa, sang đến người?

Các loài thú Họ Cầy, kể cả (từ góc trái trên cùng đến góc phải bên dưới)ParadoxurusGenettaPaguma và Arctictis. Wikipedia.org

Động vật có lông là động vật săn mồi. Chúng ăn động vật có vú nhỏ. Chúng cũng săn đuổi dơi trong thiên nhiên. Và những con dơi chỉ có một khoảng thời gian ngắn mỗi năm mà chúng đều có con nhỏ cùng một lúc. Rất nhiều dơi sơ sinh rơi từ trần xuống và nằm trên sàn. Và những con cầy (chồn) hoang này biết điều đó. Chúng đi vào hang dơi và ăn đầy bụng. Đây là một kỳ nghỉ lễ đối với một số người, có rất nhiều thứ để ăn. Và họ có thể nhiễm những loại virus như vậy trong tiến trình này. Một số nông trại lông thú này là động vật hoang dã, vì vậy động vật hoang dã luôn được thêm vào. Đó là lý do tại sao có thể dễ dàng tưởng tượng rằng những loại virus như vậy sẽ lây sang những giống chó này. Và quý vị có thể xem các chương trình truyền hình Nó có thể lây truyền thế nào, khi lấy lông thú: Đây là một ngành kỹ nghệ tiếp xúc gần gũi với con người khiến người ta dễ bị nhiễm bệnh.

Ông có thể làm gì nếu ông tìm thấy virus trong một công ty như vậy?

Đây là những nông trại chăn nuôi. Có một hàng rào xung quanh. Tất cả các con thú có thể được chủng ngừa. Nếu quý vị đã có thuốc chủng ngừa. Tất nhiên, người ta cũng có thể tiêu hủy toàn bộ nhưng con thú đó, như đã làm ở Danmark (Đan Mạch), để virus biến mất một lần nữa. Nó không quay trở lại quá nhanh, ít nhất là không phải biến thể này. Tất nhiên, điều quý vị phải nhận ra là nếu bây giờ người ta kiểm soát những đàn thú như vậy,  có thể không tìm thấy loại virus đã có ở đó – có thể – một năm rưỡi hoặc hai năm trước. Nếu có một lần tiêu hủy cả đàn trong khỏang thời gian đó. Hoặc nếu virus đã chết theo một số những cách khác.

Kể từ đầu thiên niên kỷ, chúng ta đã thấy Sars-1, Mers, rồi Sars-2. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Đối với hai đại dịch Sars, người ta có thể nói: năm mươi, sáu mươi năm trước, khi một chuyến bay xuyên lục địa là ngoại lệ và chỉ có các nhà ngoại giao mới bay đến Trung Hoa, và giao thương với châu Á được thực hiện bằng những container vận chuyển – lúc đó là một loại virus như vậy sẽ không lây lan dễ dàng như bây giờ. Du lịch dễ khiến dịch địa phương bùng phát thành đại dịch. Ở cội nguồn, ở giai đoạn virus di chuyển từ động vật sang người, con người chúng ta sử dụng ngày càng nhiều đất trong khu vực động vật hoang dã và ngày càng nuôi nhiều gia súc. Cơn đói thèm thịt của loài người ngày càng lớn. Quần thể động vật càng dày đặc và lớn hơn, thì khả năng một khi virus được đưa vào quần thể, sẽ bùng nổ và đột biến như Sars-2 càng lớn. Người càng giàu có, họ càng ăn/dùng nhiều động vật hơn. Mers là một ví dụ điển hình cho vấn đề này.

Bằng cách nào?

Lạc đà như một con vật hiến tế tôn giáo có truyền thống lâu đời và rất được coi trọng. Nhưng nó cũng làm tốn rất nhiều tiền. Những người theo đạo nghèo lấy cừu thay thế. Nhưng càng nhiều người giàu lên ở vùng đó, thì số lượng lạc đà bị hy sinh càng nhiều. Ngày nay, chẳng hạn, trong mùa Hajj chỉ riêng trên bán đảo Ả Rập, 40.000 con lạc đà bị giết làm vật hiến tế mỗi năm. Năm mươi năm trước, điều đó thậm chí còn không có. Cuối cùng, ở bất cứ nơi nào trên thế giới, đó là việc sửa đổi các hệ thống tự nhiên: một quần thể gia súc lớn ở bất kỳ nơi nào luôn là thứ gì đó nhân tạo. Việc sử dụng động vật không có trong tự nhiên. Không có loài động vật nào sử dụng bất kỳ loài nào khác theo cách này (trừ loài người).

Ở Thụy Sĩ, hầu như không có bất kỳ cuộc thảo luận nào về việc chúng ta đã mắc phải đại dịch này như thế nào, nhưng tất cả càng trở nên bạo động hơn khi chúng ta thoát khỏi nó càng nhanh càng tốt: một phần ba dân số hiện đã được chủng ngừa ít nhất một lần. Nhà hàng, quán bar, cửa hàng, gym – mọi thứ đều mở cửa lại. Mùa hè đến. Số người nhiễm bệnh đang giảm, tuy vẫn ở mức cao nhưng giảm gần như liên tục. Có phải đại dịch đã qua đối với chúng ta, với tỷ lệ tiêm chủng của chúng ta hay không?

Những gì chúng ta đang thảo luận ở đây như một đại dịch là: Một căn bệnh truyền nhiễm đang lây lan theo cách mà người ta phải can thiệp, ngay cả bằng các biện pháp ngăn chặn, phong tỏa, bởi vì người ta không có cách khác. Bây giờ chúng ta có thêm một thứ làm giảm sự lây truyền tốt hơn nhiều so với các biện pháp tiếp xúc giãn cách: đó là chủng ngừa. Cả hai yếu tố đó và nhiệt độ ấm hơn, làm giảm sô bị lây nghiễm khoảng 20%, có nghĩa là các con số sẽ giảm. Bí quyết bây giờ là không giảm các biện pháp ngăn ngừa quá nhanh, nếu không nó sẽ phản công lại một lần nữa theo cấp số nhân. Nhưng phải giảm nó xuống theo một tỷ lệ nhất định. Tất nhiên, điều đó phải được thực hiện bằng chính trị, không phải hành động thuần túy dựa trên cơ sở khoa học, mà là với một sự thỏa hiệp nhất định về mục tiêu. Nếu bây giờ mọi thứ tiếp tục như thế này, với một cảm giác cân xứng và nếu đại dịch được xác định theo cách này thì, vâng,  tình thế sẽ kết thúc.

Chúng ta sẽ sớm có miễn dịch cộng đồng hay không?

Hay giải thích ý của quý vị về điều đó.

Miễn dịch cộng đồng là khi, tùy theo nguồn, 70 hoặc 80 hoặc 90 phần trăm dân số đã được chủng ngừa hoặc đã trở nên miễn dịch, không bị bệnh và sau đó virus không còn lưu hành nữa. Điều này có nghĩa là những người không được tiêm chủng cũng được bảo vệ.

Đúng như vậy. Việc đó sẽ không xảy ra ở đây.

Ý ông muốn nói gì?

Đây là một sự hiểu lầm ngay từ đầu, nếu người ta hiểu rằng miễn dịch cộng đồng có nghĩa là: 70% sẽ trở thành miễn dịch – bất kể là do chủng ngừa hay lây nhiễm – và 30% còn lại sẽ không còn tiếp xúc với virus kể từ đó. Nó không phải là thực tế với loại virus này. Bất kỳ ai không tiêm chủng sẽ mắc bệnh Sars-2. Thuật ngữ miễn dịch cộng đồng bắt nguồn từ y học thú y, nơi những nghiên cứu này đã thực sự được thực hiện trong những năm trước đó, ví dụ với virus rinderpest, virus sởi ở gia súc. Khả năng lây truyền cao, nhưng có thể phòng ngừa suốt đời bằng cách tiêm chủng. Sau đó, bạn thực sự có thể tính toán như vậy: Chúng ta có một quần thể chăn nuôi khép kín – chúng ta phải chủng ngừa bao nhiêu con bây giờ để virus không thể lưu hành? Đó là nơi bắt nguồn của thuật ngữ này.

Con người không sống thành cộng đồng.

Con người không phải là một nhóm kín. Chúng ta có du lịch và giao tiếp và có sự liên tục, vì vậy ngay cả khi không đi du lịch vẫn có làng lân cận, và lại có làng lân cận, và cứ thế nó tiếp diễn trên khắp thế giới. Và đây là cách virus sẽ lây lan, theo khả năng lây lan cơ bản của chúng. Trong một vài năm nữa, một trăm phần trăm dân số sẽ được chủng ngừa hoặc bị nhiễm bệnh. Ngay cả sau đó, Sars-2 vẫn sẽ lây nhiễm sang người, nhưng đây sẽ không còn là những lây nhiễm ban đầu nữa. Lần lây nhiễm đầu tiên là điều ngu ngốc, sau đó bệnh tật gây ra nó cũng đỡ tệ hơn. Nó có thể sẽ là một loại, vâng, tôi muốn nói: bị cảm.

Chúng ta đã nói rất nhiều về tình trạng chủng ngừa bất bình đẳng trên toàn cầu trong vài tuần qua. Chừng nào hàng tỷ người chưa được tiêm phòng, loại virus này có thể tiếp tục đột biến. Hay một lúc nào đó chúng sẽ hết phù phép?

Có lẽ là trường hợp thứ hai [hết đột biến].

Tại sao?

Để hiểu điều này, chúng ta cần nói về hệ thống miễn dịch. Các bộ phận khác nhau của hệ thống miễn dịch bảo vệ chúng ta khỏi nhiễm trùng và bệnh tật. Các kháng thể bảo vệ chúng ta khỏi bị nhiễm trùng giảm đi nhanh chóng và chỉ có thể nhận ra virus ở một vài nơi. Vì vậy, chúng ta có thể bị nhiễm trở lại tương đối sớm, đặc biệt nếu virus đã đột biến chính xác ở những nơi đó.

Nhưng?

Nhưng chúng ta chỉ bị bệnh nhẹ với nó. Bởi vì phần đó của hệ thống miễn dịch bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật bền vững hơn nhiều. Do đó, việc chủng ngừa có thể thực sự bảo vệ chúng ta khỏi bị ốm nặng trong vài năm. Chịu trách nhiệm cho điều này là cái gọi là tế bào T, đã được nói đến liên tục trong một năm: không giống như kháng thể, chúng không thực sự quan tâm đến việc virus có đột biến một chút hay không: tế bào T có thể nhận ra nó [virus] dựa trên nhiều đặc điểm khác nhau. Virus có thể dễ dàng mất một số đặc tính của nó qua những đột biến.

Vì vậy, điều đó có nghĩa là: những lo lắng rằng virus đang lan truyền khắp nơi sẽ đột biến và rằng các loại thuốc chủng ngừa hiện tại sẽ sớm trở nên vô giá trị là không chính đáng?

Những gì người ta có thể thấy: Sự khác biệt giữa các biến thể virus đã xuất hiện trên các lục địa khác nhau không phải là quá lớn. Từ quan điểm cua khoa học virus , có nhiều lý do chính đáng để cho rằng Sars-2 không có nhiều hơn những gì nó có thể cho chúng ta thấy cho đến nay. Các coronavirus biến đổi chậm hơn và ít mạnh hơn, ví dụ, virus cúm, thực sự có khả năng gây đại dịch lớn hơn nhiều. Tôi không thể tưởng tượng được một đột biến của virus lại đột ngột khiến phần lớn những người đã được chủng ngừa lại bị bệnh nặng.

Chuyện gì đối với những người đến gần mùa thu mà không (được) chủng ngừa – và những đứa trẻ?

Vì vậy, hoàn toàn về mặt kỹ thuật: Có, bạn có thể chủng ngừa cho chúng. Sẽ không bao giờ đột nhiên trở nên rõ ràng rằng tiêm chủng là nguy hiểm cho trẻ em và có nguy cơ không thấy trước – sau tất cả những gì đã được biết đến ngày nay. Câu hỏi lớn là về quyền lợi của trẻ em: Tất nhiên người ta có thể tiêm chủng để trường học hoạt động suôn sẻ. Nhưng còn gánh nặng vì bệnh tật ở trẻ em thì sao? Không ai có thể nói chính xác vào lúc này. Có bao nhiêu trẻ tiếp tục có các triệu chứng sau khi bị nhiễm trùng, ngay cả khi nó nhẹ? Một nghiên cứu vừa được công bố cho thấy: khoảng 4,5% trẻ em mắc bệnh vẫn có các triệu chứng như mất khứu giác, mất vị giác và luôn mệt mỏi sau một tháng. Người ta có muốn điều đó xảy ra cho con mình không? 4,5% không phải là một con số nhỏ. Rủi ro còn lại là cái gọi là hội chứng viêm đa hệ thống, ảnh hưởng đến một phần nghìn người: một căn bệnh nghiêm trọng có thể kéo dài đến sáu tháng. Từ quan điểm của cha mẹ, con tôi sẽ được chủng ngừa. Trường hợp rõ ràng. Tôi không muốn rủi ro này.

Ông Drosten, ở Đức, ông đã trở thành nguồn thông tin đầu tiên cho nhiều người trong cuộc khủng hoảng này với podcast NDR “Cập nhật Coronavirus”. Khi ông bắt đầu podcast hơn một năm trước, ông muốn biết những gì ông đã biết hôm nay?

Lúc đó tôi không biết giới truyền thông hoạt động như thế nào.

Ý ông nói thế nghĩa là gì?

Điều mà tôi hoàn toàn không nhận ra là sự cân bằng sai lệch này có thể xuất hiện ở nơi công cộng, trên các phương tiện truyền thông. Và điều này chỉ có thể được sửa chữa ở một mức độ hạn chế.

Sự cân bằng sai lệch?

Ý ​​đó nghĩa là: Được rồi, đây là ý kiến ​​đa số, được hàng trăm nhà khoa học đại diện. Nhưng sau đó có hai nhà khoa học này lại tranh luận ngược lại. Tuy nhiên, trong bài thuyết trình trên phương tiện truyền thông, bạn đặt một trong số hàng trăm này so với một trong hai. Và sau đó có vẻ như đó là 50:50, một xung đột về quan điểm. Và sau đó những gì thực sự xảy ra là vấn đề với nó, cụ thể là các chính trị gia nói: “Chà, vậy thì sự thật sẽ nằm ở giữa.” Đó là sai lầm khi chọn thỏa hiệp ở giữa. Và đó là điều mà tôi không biết về mặt định tính. Tôi không biết hiện tượng này iện hữu. Tôi cũng không biết rằng nó vẫn dai dẳng và không thể tránh khỏi. Điều này, vấn đề này đã xảy ra trên thực tế ở tất cả các quốc gia. Tất cả các nhà khoa học đều nói về nó.

Ông có hối hận về quyết định đó không?

Không. Tôi không biết liệu đó có phải là lý do để không làm điều gì đó như vậy một lần nữa hay không. Tôi nghĩ rằng nó hoàn toàn đúng khi đã làm điều đó. Nó có một số hiệu ứng tốt, đặc biệt là trong đợt dịch đầu tiên, cũng như sự cân bằng sai lệch này vẫn chưa mạnh. Nó chỉ đến vào mùa thu, với sự bắt đầu của đợt dịch thứ hai. Và sự tiếp nhận điều (sai lầm) này đến trong đợy dịch thứ hai: Chính sách này đơn giản là mất phương hướng. Ở đó bạn có những người nói: “À, một nhà khoa học đã nói thế. Nhưng tôi thích nhà khoa học khác hơn, và ông ấy nói người khác.” Và sau đó các chính khách bắt đầu thương lượng với nhau. Sau đó, sự thỏa hiệp này xảy ra ở giữa, dẫn đến một giải pháp nửa vời. Và loại virus này thực sự không tha thứ cho họ.

Giáo sư Y khoa Christian Heinrich Maria Drosten (sinh năm 1972 tại Lingen/Emsland) là một nhà khoa học về virus người Đức đặt trọng tâm nghiên cứu vào các virus mới (virus mới nổi). Trong đại dịch COVID-19, Drosten đã trở nên nổi tiếng ở Đức với tư cách là một chuyên gia về các tác động và hành động cần thiết để chống lại dịch bệnh ở Đức.

Die Republik là một tạp chí kỹ thuật số về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, không có quảng cáo, do độc giả tài trợ.

© 2021 DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net

Nguồn: Herr Drosten, woher kam dieses Virus? | Marie–José Kolly , Angela Richter and Daniel Ryser | Die Republik | June 5, 2021.