Tạ Ký, thể phách và tinh anh
Phạm Xuân Đài
“Noel ở quận lỵ hẻo lánh thật buồn. Nhà thờ nhỏ, người đi lễ thưa thớt. Mình kỷ niệm ngày Chúa ra đời bằng một xị đế với phá lấu. Về nằm ngủ, thấy chiêm bao lung tung. Đêm Noel lạnh quá.” – Tạ Ký.
Tạ Ký sinh năm 1928, đến năm 1945 có thể coi anh vừa vào tuổi thanh niên. Một số thanh niên thuộc thế hệ 1945, trong cuộc kháng chiến chống Pháp phải đối diện với hai chọn lựa. Nếu ở vùng “tự do” tức vùng Việt Minh kiểm soát thì ở lại với kháng chiến hay là “nhảy đồn” để về vùng quốc gia; hoặc đang ở vùng quốc gia cũng có một số nhấp nhỏm thoát ly về vùng kháng chiến. Từ sau 1950, khi phía cộng sản bắt đầu chương trình cải cách ruộng đất và đấu tố thì phong trào về thành phố ngày càng nhiều.
Tháng Sáu năm 1952, Tạ Ký cùng Lê Trọng Nguyễn, Nguyễn Sum, Nguyễn Viết Tường “nhảy” vào đồn Xuân Đài, thuộc Gò Nổi, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, sau khi lội qua con sông Thu Bồn nhánh phía nam, nước rất cạn vào mùa hè. Từ đó các anh được đưa dần về Đà Nẵng, và sau một thời gian làm thủ tục an ninh với ty Công An và phòng nhì Pháp, tất cả được gia nhập vào cuộc sống bình thường của vùng quốc gia. Nhưng trước khi hội nhập hẳn vào đời sống mới, cả đám bị phòng nhì Pháp bắt trở lại, và chuyện này có thể là một giai thoại vui vui, nên mở một dấu ngoặc để kể lại. Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn khi về có mang theo mình một cây đàn ghi-ta Ý mà anh rất quý, và khi khai ở phòng nhì Pháp bằng cách thế nào để qua sông Thu Bồn, anh đã dùng chữ Phápnager (lội bơi). Đám phòng nhì xem lại hồ sơ thì thấy có điều không ổn: lội bơi qua sông thì làm sao đem cây đàn theo? Thế là cả bọn bị bắt lại cho đến khi làm sáng tỏ chuyến vượt sông chỉ là một cuộc lội bộ qua một dòng nước rất cạn.
Thời bấy giờ, đối với một thanh niên, việc bỏ vùng này vượt qua vùng khác là một chuyện rất trọng đại. Chế độ thay đổi, chí hướng thay đổi, tương lai thay đổi. Chuyến ra đi ấy của Tạ Ký càng trọng đại vì anh chỉ đi có một mình, tất cả người thân và gia đình ở lại bên kia hết. Vừa chớm vào đời đã làm lại tất cả từ con số không, từ hai bàn tay trắng. Điều này ảnh hưởng không nhỏ lên sáng tác của anh, có thể là khởi điểm mới cho toàn bộ thi ca của anh. Mặc dù Tạ Ký làm thơ rất sớm, từ đầu thập niên 40 thời còn học tiểu học, tất cả thơ của anh mà chúng ta được biết hôm nay đều là thơ làm từ khởi điểm mới ấy. Anh là nối dài âm hưởng thi ca tiền chiến, mà Huy Cận và Nguyễn Bính có lẽ là hai nhà thơ ảnh hưởng anh nhiều nhất. Tính chất lãng mạn của những chuyến giang hồ thời trước nay chính anh đã thực hiện để xoay chuyển đời mình. Và nỗi nhớ, nỗi đau của chia ly, xa cách với mẹ già, với làng mạc – những nỗi niềm đã trở thành cổ điển trong thơ ca của chúng ta một thời – hằn khá rõ nét trong thơ anh trong những năm đầu về thành.
Và dĩ nhiên tình yêu. Tình yêu không chiếm một tỉ lệ đáng kể trong thơ Tạ Ký, không có nét say mê đắm đuối của tuổi trẻ mà luôn luôn nhuốm vẻ ngần ngừ như chạm vào một mặc cảm. Đó không phải là những lời giao tình của tuổi hai mươi, lúc “tình xanh không lo sợ,” mà của năm, mười năm sau đó, khi “tôi chín chắn như thủy thủ già vượt biển, đọc mây sao tìm hướng của phong ba, mùa lỡ xuân mà ngày cũng sắp tà.” Vào tuổi hai mươi Tạ Ký có làm thơ tình không? Chắc chắn là phải có dù không còn lại một dấu vết nào, nhưng những bài thơ tình của anh mà chúng ta đang có là những ly rượu lâu năm, rất thắm, rất đượm, nhưng không còn màu xanh lung linh ngan ngát của buổi tâm hồn mới mở.
Thơ tâm sự với bạn bè thì nhiều. Tâm tình chính yếu của anh có lẽ là ưu tư về đất nước, về cuộc đời, về vai trò của lứa tuổi mình. Nói với người đồng hội đồng thuyền là tiện nhất. Chuyến về thành vừa như một vụ tỵ nạn chính trị vừa là một chuyến đi tìm một lý tưởng mới. Nhưng cái chính nghĩa quốc gia còn mờ nhạt bên cạnh sự hiện diện của quân đội viễn chinh Pháp có lẽ chưa đáp ứng được, chưa cả biện minh nữa, cho quyết định đổi đời của chàng thanh niên. Ở bên kia, bức màn bức bối của đấu tố và kiểm soát tư tưởng bắt đầu buông xuống làm tối đi sự trong sáng của những năm đầu kháng chiến, hàng loạt người đã quyết định thoát đi. Nhưng khát vọng của những tâm hồn nặng lý tưởng thì chắc chắn sẽ ít nhiều bị hụt hẫng với bên này. Đó là nỗi khổ của lớp người như Tạ Ký.
Và nỗi khổ ấy sẽ kéo dài theo đời sống, theo thời cuộc, với đất nước chia đôi, với chế độ mới ở miền Nam, rồi với cuộc chiến ngày càng nhấn chìm mọi hy vọng xây dựng một đời sống no đủ và tự do dân chủ mong ước. Tạ Ký là một tổng hợp điển hình của một mẫu loại đời sống của miền Nam. Ưu tư, bất mãn với rất nhiều cảm giác bất lực, nhưng vẫn làm việc, vẫn sống, thậm chí vui chơi với cuộc sống, kết giao, nhậu nhẹt, sáng tác… cho đến ngày miền Nam sụp đổ.
***
Trong buổi họp mặt của Hội Thơ Tài Tử hồi tháng Chín năm ngoái (2000) tại quận Cam, một người không quen đến gặp tôi. Người ấy là nhà thơ Đạm Thạch, kéo tôi ra một nơi, đưa cho tôi coi bức thư của Đynh Trầm Ca viết từ Sài Gòn, trong đó có một đoạn nhắc đến tên tôi, nhưng về chuyện một người khác: anh Tạ Ký. Đoạn ấy như sau:
Mới đây tôi có gặp Cung Tích Biền để nói chuyện mộ anh Tạ Ký ở Chợ Mới An Giang có người cho biết gần như mất dấu, nếu không có ai lo di dời. CT Biền bảo sẽ báo Tường Linh và anh em khác để lo nhưng rồi… cũng chỉ nói chơi cho vui!… Không biết Đạm Thạch có biết Tạ Ký không nhỉ? Đ.Thạch hỏi dùm T.Y. Hòa có biết ai là thân nhân ông Tạ Ký còn sống ở Mỹ hay ở Sài Gòn để báo cho họ biết nhé! Cũng nên báo cho anh Phạm Phú Minh (tức Phạm Xuân Đài) vì anh Minh người Quảng Nam có khi anh ấy sẽ có ý kiến gì đó giúp cho nắm xương anh Tạ Ký có chỗ yên ổn (…).
Đây là một điều tôi trông đợi đã nhiều năm, nó đã đến với tôi vào một lúc không ngờ nhất, vì tôi đã không còn hy vọng gì việc tìm biết thêm tin tức về anh Tạ Ký. Khoảng những năm đầu thập niên 80 khi còn trong trại cải tạo ở Thanh Hóa, tôi đã nghe loáng thoáng tin những người thăm nuôi nói anh Ký đã mất ở Long Xuyên, nhưng đến khi tôi được về Sài Gòn thì chuyện đó đã thành chuyện đời xưa, hỏi đến chẳng ai biết nữa. Tôi buồn vì anh Ký là một trong những người thân của tôi, mà đến một lúc cuộc đời xiêu tán đến độ chỉ trong một không gian không rộng lớn lắm – Sài Gòn, Long Xuyên – mà hỏi mãi cũng không biết được những ngày cuối cùng của anh đã xảy ra như thế nào, mồ mả hiện ở đâu.
Qua đến Mỹ thì đôi khi tình cờ cũng được nghe tin tức về anh, nhưng chỉ thêm hoang mang. Ít nhất anh đã chết tại ba nơi khác nhau là Long Xuyên, Rạch Giá và Cà Mau, vì ba nguyên nhân cũng hoàn toàn khác nhau là bệnh gan, bị công an đánh, và… trúng gió. Nhớ lại những ngày thân thiết hồi xưa, tôi chỉ biết mặc niệm anh trong lòng.
Tạ Ký là một nhà thơ sáng tác rất sớm, ngay từ những ngày còn ngồi ghế nhà trường, và vào giữa thập niên 50 thì được nhiều người biết đến khi thơ anh bắt đầu xuất hiện trên báo chí Sài Gòn như các tờ Đời Mới, Văn Nghệ Tiền Phong v.v… Sau khi bỏ vùng Việt Minh năm 1952 thì anh về Huế để học nốt những năm cuối của bậc trung học ở trường Khải Định. Đậu tú tài xong anh vào Sài Gòn năm 1956, theo học Văn Khoa và Luật. Anh dạy văn chương tại trường Petrus Ký, Sài Gòn, từ những năm cuối thập niên 50, có cung cách một giáo sư – nghệ sĩ. Anh vẫn tiếp tục làm thơ, cuối thập niên 60 in tập Sầu Ở Lại, và được trao giải Tổng thống VNCH vào đầu thập niên 70. Anh có in một tập thơ thứ nhì, Cô Đơn Còn Mãi, nhưng có lẽ gần ngày sụp đổ miền Nam nên ít người biết đến. Từ 1975 anh đi tù cải tạo vì tội “giáo chức biệt phái,” ra khỏi tù hai năm sau. Năm 1978 anh đi về miền Tây, và đã qua đời tại đó vì bệnh gan ngày 19 tháng Ba năm 1979. Việc anh Tạ Ký qua đời tại một nơi xa xôi như thế đã khiến phần lớn bà con bạn bè không biết rõ về cái chết của anh, do đó đã có nhiều đồn đoán lung tung. Cho mãi đến gần đây nhờ anh Đynh Trầm Ca có lòng tìm kiếm, báo động, mọi việc mới được rõ ràng, như sẽ được trình bày ở một phần sau.
***
Tạ Ký người làng Trung Phước, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Làng anh nằm trên hữu ngạn con sông Thu Bồn, là một vùng bắt đầu có nhiều núi non, từ đây càng tiến về phía tây thì càng đi vào vùng thượng du. Mỏ than Nông Sơn nằm bên kia sông, hơi chếch về phía thượng nguồn. Phong cảnh vùng này hữu tình, đồi núi quê anh là nơi Bùi Giáng đã đi chăn dê, hai chàng thi sĩ đất Quảng xuất thân cùng một làng, thậm chí nhà ở cùng một xóm với nhau.
Khoảng đầu thập niên 40, gia đình anh gởi anh vào Quảng Ngãi ở trọ học ngay tại nhà tôi, vì thầy tôi thời ấy đang làm hiệu trưởng trường tiểu học phủ Bình Sơn. Dạo ấy tôi còn quá nhỏ, không có ký ức gì về sự hiện diện của anh trong nhà, chỉ nhớ nhà tôi đông đúc vì anh chị em tôi vốn đã đông, lại thêm một số học trò trọ học từ Quảng Nam vào. Mặc dù ở Quảng Nam cũng có nhiều trường học, bà con hoặc bạn bè của gia đình thích gởi con cái trọ học với thầy tôi, tuy phải đi xa. Chắc họ nghĩ được ăn học nơi một nhà mô phạm thì chắc ăn hơn, dễ “thành người” hơn. Một người bà con, cùng quê lại cùng trọ học một thời với Tạ Ký, nhà thơ Tú Lắc hiện ở San Jose đã nhớ lại thời xa xưa đó như sau:
Theo bà cô ruột tôi, thân mẫu của Tạ Ký, thì bà hiếm con nên cô dượng tôi đến chùa Non Nước – tức Ngũ Hành Sơn – để cầu tự. Sau đó Tạ Ký được sinh ra nên trong thân tộc tôi bảo Tạ Ký là con cầu. Tôi tuy ít tuổi hơn nhưng là vai anh, anh em cô cậu ruột. Thuở bé, chúng tôi thường qua lại chơi với nhau, đến khi đi học cũng lại học chung một trường, trường làng. Trong mấy mươi học trò nhà quê, Tạ Ký học giỏi nhất.
Những năm cùng nhau học ở trường Bình Sơn, Quảng Ngãi, Tạ Ký đã thích thơ. Một tập vở đóng bằng giấy manh, Tạ Ký vẽ vời ngoài bìa trông cũng khá “hoa lá cành” và nắn nót hai chữ “Vườn Thơ” bằng bút chì màu. Tập này, Tạ Ký dùng chép những bài thơ ưa thích. Tôi còn nhớ bài “Chợ tết miền quê” của Đoàn Văn Cừ được chép ở trang nhất. Một tập vở khác là những bài thơ của Tạ Ký sáng tác tên là Tạ Tập Tò. Rất tiếc tôi không còn nhớ được bài nào.
Ngoài sở thích thơ, Tạ Ký cũng rất ưa đá bóng. Đọc “Đội Ban Quê” (hình như là của Thanh Tịnh) trong tập Truyền Bá Quốc Ngữ thời bấy giờ, Tạ Ký thích quá bèn đứng ra lập một đội banh của lớp Nhì đệ nhị, thời ấy gọi là lớp Moyen première année, lấy tên là đội Thanh Xuân. Đội thường hay tập dượt với những quả banh tennis xin được của người lớn. Tạ Ký giữ “gôn” rất khá, cũng có những pha nhào lộn để bắt bóng rất ư là “ngoạn mục.” Đầu gối vào cùi tay cũng do những pha này mà trầy trụa tùm lum.
… Trong khoảng thập niên 70, tôi phụ trách mục thơ “Ngông” cho nhật báo Dân Luận ở Sài Gòn do anh Thinh Quang làm chủ nhiệm. Một hôm Tạ Ký đến tìm tôi, anh Thinh Quang bảo rằng tôi cùng anh Mộng Đài và ký giả Hồng Thu đi Long An chơi rồi. Nghe xong Tạ Ký bèn nói to lên rằng: “Thật chán cho cái ‘thằng’ anh của tôi. Ký thiệt đây mà hổng đi chơi, đi làm chi với mấy tay… ký giả ấy!”
***
Từ miền Trung, Tạ Ký vào Sài Gòn, và như nhiều lớp người Quảng Nam có học trước đây đã đến miền Nam, “gia nhập” vào đời sống Sài Gòn đối với họ gần như có nghĩa tuyệt đối là làm nghề dạy học và viết báo. Phan Khôi, Vương Gia Cần, Phan Ngô, Vũ Ký… đã làm như thế, đến phiên mình Tạ Ký lại gia nhập vào cái thế giới chữ nghĩa ấy. Anh dạy trường công và vô số trường tư, rồi lại viết báo, làm thơ, như một cái nghiệp đã định sẵn cho một lớp người. Nhưng Tạ Ký không thuộc giới mở trường tư, cũng không phải một người hoạt động chính trị — mặc dù ưu tư chính trị vẫn là một nét đặc biệt của những người từ xứ Quảng vào đây, và Tạ Ký cũng không ra ngoài thông lệ ấy — anh mang cung cách một nghệ sĩ. Giao du, đàm luận, nhậu nhẹt với bạn bè là một sở thích không thể thiếu với anh, và trước 1975, chợ Đủi được coi là “giang sơn” của anh với các bạn, mỗi buổi chiều. Chính đám bạn bè ghiền nhau trong thế giới riêng ấy của họ đã tô đậm thêm nét cá tính của thầy giáo và nhà thơ Tạ Ký. Nhà thơ Hà Thượng Nhân nhớ lại mấy nét vừa ngông ngông vừa cảm khái về anh:
Tạ Ký là một thi tài. Anh hình như có một tâm sự u uất nào đó, không thể nói ra lời. Cho nên cố quên bằng rượu. Ngày nào cũng uống la-de, không phải một hai chai mà cả “két.” Lại phải uống ở chợ Đủi mới “đã”. Uống ở đâu rồi rốt cục cũng phải về chợ Đủi uống thêm.
Một buổi chiều về nhà, xe tôi chạy qua chợ Đủi. Tạ Ký ra giữa đường chặn đầu xe lại. Rồi lôi tôi vào quán và đuổi tài xế về. Tôi uống một chai rồi định rút lui. Tạ Ký ấn vai tôi ngồi xuống: “Không được! Anh phải uống mười chai.”
Tôi đang ngồi với Chu Tử ở nhà Đằng Giao (con rể Chu Tử) thì Tạ Ký đến. Gặp tôi anh hung hăng nói lớn: “Em phải đánh Phạm Thiên Thư.” – “Sao đánh?” – “Vì nó hỗn.” – “Hỗn sao?” – “Nó dám viết Đoạn Trường Vô Thanh.” – Rồi Tạ Ký đọc: “Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.” (Tì Bà Hành) (1). Nó dám cho nó là hơn Nguyễn Du. Thơ của nó đã đi đến đâu mà dám láo vậy?”
Có hôm tôi bảo Tạ Ký: “Cậu dạy kiểu gì mà năm, sáu mươi giờ một tuần? Uống rượu kiểu gì mà hàng ‘két’ mỗi tối? Cậu định tự tử đấy à?” Tạ Ký hỏi lại: “Bộ cuộc đời đáng sống lắm hở anh?”
***
Sau khi đi tù cải tạo về, trong khung cảnh xác xơ của xã hội sau 75, Tạ Ký vẫn gặp gỡ bạn bè, trong những quán nhậu nghèo nàn hơn, uống những thứ rượu độc hại hơn. Và đến một ngày năm 1978 anh quyết định ra đi về miền Tây. Buổi tối trước khi đi anh uống rượu với Võ Hồng Lạc, một người bạn giáo chức, thổ lộ ý định ấy và đọc cho Lạc bài thơ như sau:
Đời lỡ nhúng sầu bên cốc rượu
Mượn vui bè bạn sống qua ngày
Đoạn trường hơn cả thân ca kỹ
Cơm áo làm quên chuyện nước mây
Năm cùng tháng tận, đời hoang vắng
Bên quán ngờ đâu lại gặp mầy
Quàng vai tìm chút dư hương cũ
Nhắc đến hàng trăm chuyện đổi thay
Nhắc đến những thằng nay đã chết
Những thằng nay sống kiếp trâu cày
Bạn ơi, nước mắt mình tuôn đấy
Ngồi nhậu bên tường, ta khóc đây.
“Có thể chẳng bao giờ tao với mầy còn gặp lại nhau nữa.” Đó là câu cuối cùng trước khi chia tay.
Mấy tháng sau, Lạc được Tôn Thất Trung Nghĩa cho hay: “Tạ Ký bị người ta đập chết ở Long Xuyên rồi. Tôi lập bàn thờ Ký tại nhà tôi, anh em đến đó tưởng niệm.”
Thì ra cái thời cuối thập niên 70 thông tin ở Việt Nam bị sai lạc ghê thật. Những người bạn thân thiết nhất của Tạ Ký đang ở Sài Gòn, thân đến độ lập bàn thờ thờ anh, cũng chẳng biết đích xác về cái chết của anh. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ khó khăn và bị kềm hãm quá sức, hình như không ai đủ sức đi tìm hiểu một sự thật nào. Sự thật về cái chết ấy, cho đến gần đây, với sự giúp sức của Đynh Trầm Ca mới được sáng tỏ.
Sau khi đọc đoạn thư của Đynh Trầm Ca gửi cho Đạm Thạch trích dẫn trên đây, tôi đã liên lạc với ĐT Ca, cố gắng tạo điều kiện để anh có thể tìm hiểu tường tận về cái chết của anh Tạ Ký. Cuối tháng Mười năm ngoái tôi nhận được bức thư đầu tiên của anh, đề ngày 16.10.2000, có những đoạn:
Từ sau 1975 tôi trở thành người không nhà cửa (…) sống lang thang khắp mọi nơi… Những ngày tôi trôi giạt khắp miền Tây Nam bộ và về sống ở Long Xuyên ba năm. Tôi gặp năm gia đình Quảng Nam sống gần nhau, trong đó anh Nguyễn Quí Trượng, quê Quế Sơn là người cưu mang anh Tạ Ký khi sống và chôn cất ảnh khi chết. Anh Trượng có kể cho tôi nghe một vài điều về những ngày cuối đời của anh Tạ Ký, cũng như đã ghi cho tôi ngày giờ anh Tạ Ký qua đời cùng nơi chôn cất ảnh như sau:
Thi sĩ TẠ KÝ
Mất lúc 13 giờ, thứ Hai, ngày 19-3-1979, tức ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mùi, tại bệnh xá huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, do bệnh gan tái phát (từ trại giam đem đi đến bệnh xá thì chết). An táng tại nhị tì Chợ Mới (gần sân vận động).
Những người chôn cất và lập mộ: Anh Nguyễn Quí Trượng và người cháu (con ông Cả Triêm, anh cả của chị Trượng). Cùng giúp việc này có anh Nguyễn Tấn Hiến, người Duy Xuyên.
Cuối tháng 11, tôi lại được bức thư thứ hai của ĐT Ca, đề ngày 16-11-2000, thư này viết sau khi đi Long Xuyên tìm mộ Tạ Ký trở về.
Tôi đã đi xuống Long Xuyên hôm 11.11. Từ long Xuyên qua phà đi Chợ Mới hơn 30 km, tìm được cháu Nguyễn Hoàng Anh (con trai anh Cả Triêm). Cháu Anh kể:
Năm 1975, anh Tạ Ký đi cải tạo diện sĩ quan biệt phái ngành giáo dục thời gian là hai năm. Khi về vẫn được dạy lại theo diện giáo viên lưu dung. Năm 1978 vợ con đi vượt biên nên anh bị cho thôi việc. Khoảng ngày rằm tháng Chín âm lịch thì anh đi xuống Chợ Mới để tìm anh Cả Triêm (ba của cháu Anh) là bạn đồng hương của anh. Trên đường đi anh đã bị tên xe ôm đập ngất xỉu để cướp tiền bạc. Tuy vậy, nó không lục đến vớ giày nên anh cũng còn chút đỉnh. Anh được người giữ chòi chăn vịt ở Lộ Tẻ (Rạch Giá – Long Xuyên) cứu sống và hướng dẫn đường về Chợ Mới. Anh ở đó cho đến ngày 25-12-1978 thì bị Công an huyện và xã xét nhà bắt anh về tội cư trú bất hợp pháp. Khi vào trại anh khai tên là Nguyễn Đình Tư quê Bình Định (có lẽ cho hợp với một cái giấy nào đó mà anh có trong người). Vì vậy mà anh bị nghi ngờ và giữ lâu ở trại. Đến ngày 19-3-79 thì bịnh xơ gan cổ chướng của anh tái phát nặng. Vì cháu anh là người vào ra thăm nuôi suốt thời gian anh ở trại, nên trại nhắn tin cho cháu lo tiền chích thuốc, rút nước trong gan… cho đến trưa thì anh mất. Cháu Anh đã mua quan tài bằng gỗ gòn và xin trại khâm liệm rồi chôn ở nhị tì gần sân vận động và sau thánh thất Cao Đài.
Tất cả các di vật của Tạ Ký đều được người cháu giữ gìn đầy đủ, trong đó quý nhất có lẽ là tập nhật ký gồm 11 trang anh Ký viết vào những tháng cuối cùng, mà anh Đynh Trầm Ca đã gửi cho tôi được một bản sao photocopy. Tập nhật ký có tựa đề là “Một Cuộc Bể Dâu…” bắt đầu viết vào ngày 14-9-1978, và kết thúc vào 24-12-78, một ngày trước khi tác giả bị bắt. Tâm trạng một người vào con đường cùng, bệnh hoạn, buồn bã, trầm uất nhưng vẫn hy vọng ”Thế nào rồi cũng yên. Hết bĩ đến thái, cơ trời là vậy. Mình mong những người thân thuộc khuất mắt che chở, giúp đỡ mình qua cơn nguy biến này.”
Những dòng chót của trang 11 ghi ngày 24-12-78:
“Hỡi Thượng đế! Suốt đời con đơn chiếc
Đi lang thang như lạc nẻo Thiên đường!Noel ở quận lỵ hẻo lánh thật buồn. Nhà thờ nhỏ, người đi lễ thưa thớt. Mình kỷ niệm ngày Chúa ra đời bằng một xị đế với phá lấu. Về nằm ngủ, thấy chiêm bao lung tung. Đêm Noel lạnh quá.”
Ngày hôm sau, 25-12 công an đến bắt đi. Gần ba tháng sau, Tạ Ký qua đời. Bữa nhậu và những dòng chữ cuối cùng của một đời tài hoa, vào đêm Giáng sinh 1978.
***
Một mất mát lớn cho chúng ta là toàn bộ thơ của Tạ Ký làm sau 1975, phần lớn trong trại cải tạo, nay đã thất lạc. Năm 1978, khi gia đình của anh đã đi vượt biên, anh gọi người cháu là Đỗ Ngọc Anh đến nhà và dặn: “Tất cả thơ của bác giấu trong chiếc ghế xoay này.” Nhưng rồi anh đi bất ngờ, khi Ngọc Anh hay tin đến nhà thì một số đồ đạc đã bị người ta lấy đi, trong đó có chiếc ghế xoay… Âu cũng là số mạng.
Thời gian đi tù cải tạo, Tạ Ký có lúc ở chung trại với Lê Đình Điểu, Mai Chửng, Anh Thành, Trịnh Cung. Tháng Ba 2001 vừa qua, Trịnh Cung phải mổ nằm ở bệnh viện Fountain Valley (Quận Cam), tôi đến thăm và anh đã đọc cho tôi chép bài thơ duy nhất của Tạ Ký làm trong trại cải tạo mà anh nhớ được. Theo Trịnh Cung, Tạ Ký làm bài này vào khoảng năm 1976 tại trại Xuân Lộc.
Ruồi Và Em Ruồi từ hố tiêu bay lên Tiếng ruồi lao xao như sóng gợn Mắt ruồi nâu làm nhớ tóc Tây phương. Ruồi đậu trên giây thép gai như chuỗi hạt huyền Anh tặng em ngày cưới. Ruồi đậu trên giây thép gai như những nốt nhạc |
Giây thép gai kẻ nhạc không đều Làm sao em hát. Có bầy én về không phải để báo tin Xuân Vì anh biết mùa Xuân đã chết Có bầy én về tìm ruồi trên giây thép Chuỗi hạt huyền vỡ tan Anh gọi tên em mấy lần. |
Người thứ nhì còn nhớ thơ Tạ Ký trong trại cải tạo là Anh Thành, nhưng anh chỉ nhớ… có ba câu:
Anh đã nhận được gói quà ba ký
Quà tuy nhỏ nhưng cột giây rất kỹ
Như sợi tơ tình em đã cột đời anh.
Hơn hai mươi năm qua, vì nằm xuống ở một chỗ xa xôi khuất nẻo trong một hoàn cảnh quá hiu hắt, anh hầu như bị lãng quên bởi những người từng biết anh, những đồng nghiệp, giới nhà văn, nhà báo, học trò và cả bạn bè của anh. Sau khi Đynh Trầm Ca “đặt vấn đề,” ai cũng thấy cần phải phục hồi chỗ đứng – và chỗ nằm – của một người suốt đời đã đóng góp công sức của mình trong việc giáo dục môn quốc văn và nhất là đóng góp thi tài của mình vào khu vườn văn nghệ Việt Nam. Sau mấy tháng vận động của gia đình, bạn bè, bà con trong nước và ngoài nước, cuối cùng hài cốt của anh đã được mang về cải táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, cạnh mộ Bùi Giáng, vào đúng ngày Thanh Minh năm Tân Tị (5 tháng Tư 2001). Linh hồn anh từ lâu chắc đã tìm thấy sự yên ổn, sau khi thoát khỏi cuộc đời với nhiều bệnh hoạn, sầu muộn, sợ hãi. Và chúng ta, sau khi đã tìm lại được anh, đặt anh lại vào một chỗ tương xứng trong cuộc đời cũng như trong lòng người, chúng ta cũng thấy yên ổn. Bậc tài hoa thường cho đời nhiều hơn là nhận lãnh về phần mình, vậy đời, về phía mình, cũng phải biết trân trọng phần thể phách lẫn phần tinh anh của bậc tài hoa.
Nguồn: Lời Tựa tập THƠ TẠ KÝ do gia đình nhà thơ xuất bản tại California, 2001. OntheNet: Tạ Ký, Thể Phách và Tinh Anh. Phạm Xuân Đài, trang Nét Xuân Sơn.
(1) Thử thời vô thanh thắng hữu thanh (Lúc ấy, cái không có tiếng hay hơn cái có tiếng). Tập thơ của Phạm Thiên Thư có nhan đề là “Đoạn Trường Vô Thanh.” Truyện Kiều của Nguyễn Du nhan đề là “Đoạn Trường Tân Thanh” (tiếng mới nghĩa là “có” tiếng). Câu thơ trên rút trong bản Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị.
Tu00f4i biu1ebft giu00e1o su01b0 Tu1ea1 Ku00fd lu00fac u00f4ng lu00e0m giu00e1o su01b0 Viu1ec7t Vu0103n u1edf Petrus Ku00fd. Hai giu00e1o su01b0 Viu1ec7t Vu0103n u1edf Petrus lu00e0 Tu1ea1 Ku00fd vu00e0 Vu0169 Ku00fd u0111u1ec1u u0111u00e1ng u0111u01b0u1ee3c ngu01b0u1ee1ng mu1ed9.
Toi da hoc gio Anh van do GS Ta Ky day o truong DH Van Khoa do hoi Than Huu Van Khoa to chuc.Ong day nhung van tho bang tieng Anh cua thi si An Do ten Rabinnath Tagore roi dich sang tieng Viet rat hay.