Trần Quốc Vượng và việc trích dẫn học thuật phương Tây

Lê Minh Khải | Hoa Quốc Văn dịch

factsSau khi bị rối trí bởi những vấn đề nhất định ở trang đầu một bài tiểu luận của Trần Quốc Vượng về văn hoá Việt Nam (xem bài viết gần đây nhất ở dưới), hôm nay tôi đọc hết phần còn lại của tiểu luận này.

Luận điểm mà Trần Quốc Vượng đưa ra trong tiểu luận này là: các học giả Việt Nam trong quá khứ (trước thế kỷ XX) đã bị mê đắm văn hoá Trung Hoa đến mức họ không nhận ra sự khác biệt của văn hoá Việt Nam. Tuy nhiên, theo Trần Quốc Vượng, ở nửa sau của thế kỷ XX các học giả Mác-xít Việt Nam đã thành công trong việc đem ra ánh sáng sự thật là các cội rễ của văn hoá Việt Nam có thể được tìm thấy ở thiên niên kỷ đầu trước Công lịch (nền văn hoá Đông Sơn), trước khi khu vực Đồng bằng sông Hồng nằm dưới sự kiểm soát của triều Hán, và nền văn hoá nguyên gốc này tồn tại dai dẳng trong các làng sau khi giới tinh hoa về sau đã tiếp thu nhiều nhân tố của văn hoá Trung Hoa.

Rồi Trần Quốc Vượng tiếp tục đưa ra lập luận riêng của mình rằng nền văn hoá nguyên gốc này có thể được lần ngược trở lại niên đại còn sớm hơn, đến thời kỳ Đồ đá mới (văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn). Trong khi đưa ra lập luận này ông dẫn công trình của các học giả phương Tây khác nhau để chứng minh: 1) rằng thời kỳ Đồ đá mới là một thời kỳ rất quan trọng và rằng 2) văn hoá chịu ảnh hưởng của môi trường. Ông làm như thế để đưa ra luận điểm rằng môi trường của Việt Nam đã tác động đến kiểu văn hoá được tạo ra trong suốt thời kỳ Đồ đá mới ở nơi ấy, và rằng truyền thống văn hoá này đã tồn tại dai dẳng qua nhiều thời kì, cho đến tận ít nhất là thế kỷ XVIII và XIX.

Tuy nhiên, khi làm như vậy, Trần Quốc Vượng đã diễn giải sai những gì các học giả phương Tây thực sự đã viết.

Triste Tropiques. Nguồn: Lesvis-Strauss
Tristea Tropiques. Nguồn: Claude Lesvi-Strauss

Khi bàn về tầm quan trọng của thời kỳ Đồ đá mới, Trần Quốc Vượng trích dẫn một đoạn trong cuốn Tristes Tropiques một công trình nổi tiếng của nhà nhân chủng học người Pháp Claude Lévi-Strauss, như sau:

“Một trong những giai đoạn nhiều sáng tạo nhất của lịch sử nhân loại xảy ra vào thời đại đá mới với sự phát minh ra trồng trọt, chăn nuôi,… Muốn đạt đến những thành quả vĩ đại này, không phải trong chốc lát là được, mà trái lại, những tập thể loài người bé nhỏ lúc bấy giờ đã phải trải qua hàng mấy nghìn năm quan sát, thí nghiệm và truyền đạt kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Sự nghiệp vĩ đại này diễn ra một cách tốt đẹp, liên tục và thành công, [ở một thời đại mà việc viết lách hầu như chưa được biết đến].”

Rồi Trần Quốc Vượng khẳng định, mà không đưa ra bất kỳ chứng nào hhay dẫn bất cứ nguồn tư liệu nào để củng cố tuyên bố của mình, rằng: “Bất cứ nhà khảo cổ, dân tộc học và sử học nào cũng biết rằng nếp sống thời đồ đá mới, trên cơ bản, vẫn được duy trì trong nếp sống nông thôn của nhân loại, thậm chí cho đến mãi thế kỷ XVIII, XIX”.

Nguồn: Trần Quốc Vượng.
Nguồn: Trần Quốc Vượng.

Tôi đặt cụm từ “ở một thời đại mà việc viết lách hầu như chưa được biết đến” ở phần cuối của đoạn trích dẫn công trình Tristes Tropiques nói trên trong ngoặc vuông khi mà Trần Quốc Vược không đưa nó vào đoạn trích dẫn của mình. Tuy nhiên, nó rất quan trọng bởi trong đoạn văn này Lévi-Strauss đang bàn tới lý thuyết về chữ viết chứ không phải về thời Đồ đá mới. Điều Lévi-Strauss lập luận là người ta sẽ nghĩ rằng việc sáng tạo ra chữ viết hẳn đã tạo ra rất nhiều thay đổi bởi vì con người có thể ghi chép lại nhiều thông tin hơn là trước khi chữ viết được sáng tạo ra, và một sự thay đổi quan trọng tương tự là việc cuộc Cách mạng Đồ đá mới xuất hiện trước khi chữ viết được tạo ra.

Vậy là Lévi-Strauss bắt đầu xem xét việc chữ viết quan trọng ở những cách thức nào khác.

Rốt cuộc Lévi-Strauss cho rằng điều thực sự quan trọng của chữ viết là nó dường như đã xuất hiện trên thế giới trong mối liên hệ với các thành phố và các đế chế. Ở những hoàn cảnh này, Lévi-Strauss cho rằng, điều thực sự quan trọng của chữ viết là nó tạo điều kiện cho sự khai thác con người bình dân.

Dẫn chứng, Lévi-Strauss khẳng định rằng:

“Sự khai thác này tạo ra khả năng tập hợp hàng nghìn người lao động và đặt cho họ những nhiệm vụ vắt kiệt sức khoẻ của họ… Nếu giả thiết của tôi là đúng, thì chức năng hàng đầu của chữ viết, với tư cách một công cụ giao tiếp, là tạo điều kiện cho sự nô dịch người khác.”

Quan điểm của tôi là Lévi-Strauss viết về chữ viết, không phải về thời kỳ Đồ đá mới. Vì vậy cuốn sách của ông không phải là một nguồn [tốt] để trích dẫn về thời Đồ đá mới. Nó là một công trình để trích dẫn nếu bạn đang nghiên cứu lý thuyết về sự xuất hiện của chữ viết.

Tuy nhiên, Trần Quốc Vượng đã dẫn công trình này để lưu ý rằng thời kỳ Đồ đá mới là một trong những thời kỳ sáng tạo nhất của lịch sử loài người, và sau đó ông đưa ra một tuyên bố thiếu cơ sở rằng lối sống của thời Đồ đá mới tiếp diễn trong các làng cho đến tận thế kỷ XIX.

Rồi Trần Quốc Vượng tiếp tục trích dẫn Marx và Engels cũng theo cách đó. Ông trích dẫn công trình của họ bên ngoài ngữ cảnh của chúng để đưa ra lập luận của riêng mình, một lập luận không có liên hệ tới những gì Marx và Engels thực sự đã viết.

Nguồn: TQV trích Marx
Trích K. Marx. Nguồn: TQV

Đầu tiên, Trần Quốc Vượng trích dẫn một đoạn trong bộ Tư bản của Marx trong đó Marx bàn về “quá trình sản xuất của xã hội” diễn ra dưới “quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa”. Ở đây Marx khẳng định rằng “quá trình sản xuất của xã hội” diễn ra “dưới những quan hệ sản xuất kinh tế và lịch sử đặc thù” và rằng “tập hợp các quan hệ này, bằng cách đó những nhánh của sự sản xuất này tồn tại cùng sự tôn trọng với Tự nhiên và với nhánh khác, và bằng cách đó chúng sản xuất, rõ ràng là xã hội, được xem xét từ lập trường cấu trúc kinh tế của nó.”

Không thật dễ hiểu, nhưng (trong phạm vi tôi có thể nói) Marx về cơ bản đang cố gắng giải thích xã hội là sản phẩm của những quan hệ kinh tế giữ người với người như thế nào.

Dẫn Engels. Nguồn: TQV
Dẫn Engels. Nguồn: TQV

Sau đó Trần Quốc Vượng trích dẫn một bức thư của Engels trong đó Engels nói rằng:

“Bằng các quan hệ kinh tế, cái mà chúng ta coi là nền tảng quyết định của lịch sử xã hội, chúng ta hiểu cái cách mà con người trong một xã hội xác định sản xuất ra những thứ cần thiết cho đời sống và trao đổi các sản phẩm với nhau (tới một chừng mực mà sự phân công lao động tồn tại). Hệ quả là toàn bộ kỹ nghệ sản xuất và lưu thông được bao hàm trong đó… Dưới các quan hệ kinh tế [những cái] được bao hàm xa hơn, những nền tảng địa lý… và cũng vậy, về mặt tự nhiên, môi trường bên ngoài bao quanh dạng thức xã hội này.”

Cũng như Marx, ở đây Engels đang nói về các quan hệ kinh tế, và ông đưa ra quan điểm rằng địa lý đóng một vai trò nhất định trong các mối quan hệ kinh tế giữa người với người.

Kết luận của TQQV. Nguồn: TQV.
Kết luận của TQQV. Nguồn: TQV.

Sau khi trích dẫn những bình luận của Marx và Engels về các quan hệ kinh tế, Trần Quốc Vượng khẳng định rằng:

“Vậy thì khi bàn đến những đặc điểm của văn hoá Việt Nam [!!! – LMK], phải tìm nguồn cội của nó từ thời đại đá mới, thời đại phát sinh nông nghiệp và làng xóm, phải chú ý đến những điều kiện nền tảng địa lý và môi trường thiên nhiên đã sản sinh ra những đặc điểm văn hoá ấy trước khi xét đến những điều kiện lịch sử của dân tộc đã duy trì và củng cố những đặc điểm văn hoá ấy. Đừng tách rời văn hoá với thiên nhiên.”

Kết luận mà Trần Quốc Vượng đi đến này không có liên quan gì với những gì mà Lévi-Strauss, Marx và Engels bàn đến trong những đoạn văn mà Trần Quốc Vượng trích dẫn. Thay vào đó, Trần Quốc Vượng chỉ bám vào thực tế là Lévi-Strauss đề cập đến “thời Đồ đá mới”, Marx đề cập đến “xã hội” và Engels đề cập đến “nền tảng địa lí” để củng cố ý tưởng thiếu dẫn chứng của ông rằng “văn hoá” Việt Nam (chủ đề mà không học giả nào ở trên nói đến trong những đoạn trích dẫn) hình thành trong suốt thời Đồ đá mới và chịu ảnh hưởng của địa lý và môi trường. Và rồi ông bổ sung vào đó quan điểm riêng của ông – điều “bất cứ nhà khảo cổ, dân tộc học và sử học nào cũng biết” (và tôi đoán đó là lý do vì sao không cần phải cung cấp bất cứ dẫn chứng nào để củng cố ý tưởng này…) rằng lối sống của thời kỳ Đồ đá mới đã được duy trì trong các làng cho đến tận thế kỷ XIX.

Trên bề mặt, tiểu luận này có vẻ tốt. Trần Quốc Vượng đã trích dẫn công trình của các học giả phương Tây nổi tiếng và đưa ra một luận điểm.

Nhưng nếu bạn thực sự nhìn vào cái mà các học giả ấy viết, rồi so sánh với cái mà Trần Quốc Vượng lập luận, thì lập luận của ông ấy đã đi quá xa. Nó không được củng cố bằng công trình của các học giả mà ông trích dẫn. Nó chỉ là một quan điểm do ông ấy tự dựng lên, mà không có cứ liệu hay luận cứ nghiêm túc nào.

Khi bạn trích dẫn công trình của các học giả, bạn dẫn chúng vì những ý tưởng mà các học giả ấy đưa ra. Marx và Engels bàn về các quan hệ kinh tế trong các đoạn văn mà Trần Quốc Vượng trích dẫn, không phải về vai trò mà địa lý và môi trường có thể (hoặc không) đóng trong việc định hình văn hoá. Lévi-Strauss viết về ý tưởng của mình về sự xuất hiện của chữ viết trong đoạn văn mà Trần Quốc Vượng trích dẫn, ý tưởng đó đến với Lévi-Strauss khi ông áp dụng nghiên cứu nhân chủng học vào khu vực Nam Mỹ. Thời kỳ Đồ đá mới đơn thuần chỉ là cái mà ông đề cập đến lướt qua trong cuốn sách này. Ông không đưa ra những quan niệm về thời kỳ Đồ đá mới, mà không phải là một chuyên gia về thời kỳ Đồ đá mới.

Khi trích dẫn các công trình của các học giả phương Tây vì những ý tưởng mà các học giả đó không đưa ra, Trần Quốc Vượng đã tạo ra một bài tiểu luận nhìn thì có vẻ như phải có giá trị, nhưng thực ra là không.

[Bài tiểu luận tôi đang nói đến được đính kèm ở bài viết trước]
[Ở đây: VN & TQ]

Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn:
– Anh ngữ: Trần Quốc Vượng and the Citing of Western Scholarship. Le Minh Khai’s SEAsian Blog, 18oct14.
– Bản dịch: Trần Quốc Vượng và việc trích dẫn học thuật phương Tây Tác giả: Lê Minh Khải; Người dịch: Hoa Quốc Văn.Blog LeMinhKhaiViet

1 Comment on “Trần Quốc Vượng và việc trích dẫn học thuật phương Tây

  1. NÓI VỀ SỰ MÙ QUÁNG MÁC XÍT

    Sự mù quáng mác xít bắt đầu từ chính bản thân của Mác, Ănghen, và sau đó là dọc dài mọi người mác xít trong thực tế cho đến mãi ngày nay, ở đâu cũng vậy, nhất là trong những nước CS mác xít.

    Thật ra lịch sử phát triển của thế giới loài người trên toàn thế giới từ xưa tới nay, nước nào cũng thế, đều bắt nguồn từ ý thức (nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng, năng lực trí tuệ, điều kiện khách quan …) mà không từ đâu khác. Tất cả những kết quả đó làm thành văn hóa, khoa học, tôn giáo, lịch sử, văn học, nghệ thuật, triết học, cũng như với nhiều cái khác nữa, hoàn toàn là ý nghĩa khách quan, tj nhiên.
    Điều này dù loài người đã biết, chưa biết, những trước sau rồi cũng biết. Sự phát triển văn hóa mọi mặt của nhân loại cũng càng ngày càng làm sáng tỏ ra mọi ý nghĩa vẫn đề trên cùng nền tảng hay căn cơ như thế.

    Học thuyết Mác phủ nhận mọi tiềm lực của ý thức nhân loại, chỉ thừa nhận duy nhất có ý nghĩa vật chất thuần túy (sic !) cũng như chỉ có luôn đeo bám quan niệm mê tín cạn hẹp một chiều của Mác quan niệm là quan điểm đấu tranh giai cấp (sic !). Người mác xít nói chung không bao giờ thoát ra khỏi được hai quan điểm này. Bởi nếu không thừa nhận như thế họ cũng chẳng còn là mác xít nữa. Sự mù quáng, trì trệ, lạc hậu, cả sự tai hại mọi phương diện của học thuyết Mác về mặt học thuật và khoa học chính là như thế.

    Cũng từ nên cơ sở muôn đời giáo điều lạc hậu cứng nhắc mà mọi người mác xít luôn luôn giải thích về xã hội, về lịch sử, về nhân văn, về con người đều chỉ theo một lối mòn cạn hẹp cuồng tín, trì trệ, lạc hậu, chủ quan đều chỉ có thế. Như Trần Đức Thảo vào giai đoạn đầu, Trần Văn Giàu, v.v… hay nay tới Trần Quốc Vượng, suốt một dọc dài lịch sử mác xít VN thật sự có bao giờ được phép hay có khả năng thoát ra khỏi được chính lối mòn như thế đâu.
    Và cho dù họ có được các tài liệu phương Tây khác thì cuối cùng cũng chỉ kiểu gọt chân cho vừa giày giống như Mác đã từng làm mà đâu thể nào khác. Cái quái dị cũng như phản khách quan, phản khoa học của quan điểm mác xít chỉ luôn luôn là thế. Đó là điều không thể nào sửa được, vì sửa được thì cũng sẽ không còn là mác xít nữa.
    ĐẠI NGÀN
    (20/8/15)