Tân Chủ nghĩa Xã hội
Võ Hưng Thanh
Bởi vì đây là cách viết trực nhận, không phải cách viết theo lối khảo cứu hay biên khảo thông thường nên cũng không cần tài liệu tham khảo nào cả, không cần trích dẫn hay nại ra trong chứng minh tài liệu nào.
Điều này nếu đến nay tôi không nói thì cũng sẽ chẳng bao giờ có ai nói tới. Vì thứ nhất, giờ đây còn rất ít người muốn quan tâm tới ý nghĩa của nó, hay nếu có quan tâm cũng khó có đầy đủ mọi suy nghĩ hệ thống để thật sự gỡ được vấn đề ra. Bởi vậy đây là lần đầu tiên tôi bắt buộc hay xin phép để nói tới nó. Vì tôi nghĩ nếu có ai đã nói tới nó rồi, thì ở đâu đó trên thế giới này hẳn nhiên tới giờ này nó cũng đã có.
Sở dĩ phải nói thế, bởi ý niệm chủ nghĩa xã hội vốn đã gần thế kỷ nay vẫn ám ảnh nhiều người Việt Nam hay ít ra cũng số lớn nào đó. Ám ảnh theo nghĩa tích cực và ám ảnh theo nghĩa tiêu cực. Tích cực là quyết tâm thực hiện cho bằng được nó. Tiêu cực là quyết tâm chống lại nó vì tự họ thấy nó là điều phi lý không bao giờ bất cứ ai có thể đạt tới nó được. Chính trong ý nghĩa đúng hay sai của một trong hai chiều hướng trên mà khiến giờ đây tôi cảm thấy phải cần viết ra những ý tưởng này nhằm trao đổi với tất cả những ai thuộc về một trong hai khuynh hướng nói trên.
Đây là vấn đề không những đã ảnh hưởng rất lớn và rất nghiêm trọng đến quá khứ của đất nước chúng ta, nó cũng không ngừng ảnh hưởng đến hiện tại; đặc biệt nó còn sẽ mãi mãi ảnh hưởng đến tương lai nếu thật sự chưa có ai từng quan tâm để bàn về điều đó cũng như nếu nhiều người đến giờ đây còn tiếp tục mịt mờ, chưa hiểu thật sự rành rẽ để cũng vì thế chưa thể thống nhất được một cách chắc chắn về mọi ý nghĩa sâu xa của nó.
Vậy chủ nghĩa xã hội là gì? Hay khái niệm ngược lại của xã hội chủ nghĩa là gì? Và ở đây tân chủ nghĩa xã hội là gì? Đó là điều ở đây mọi người có thể thảo luận, tìm hiểu, và cũng có thể thống nhất với nhau được nếu muốn. Nhưng trước hết, để giải quyết được thật căn cơ tất cả những điều đó, ưu tiên cần thiết nhất là phải phân tích khái niệm chủ nghĩa, khái niệm xã hội, trong các nguồn gốc nắm bắt, mục đích thực hiện, hay chỉ đơn thuần là những quan điểm hay quan niệm về nó. Tất nhiên đây phải là những nội dung và ý nghĩa được bàn đến trên lý thuyết hay nhận thức chiều sâu, bởi vì nếu không đạt đến yêu cầu đó, mọi cái đem ra thực hành thật sự cũng chỉ vô lý hay vô bổ.
Thật vậy, khái niệm chủ nghĩa là một khái niệm có gì đó thường mập mờ hoặc ít khi chính xác. Chủ nghĩa nói chung dùng chỉ định một quan niệm, một chủ trương, một quan điểm sống hay thực hành nào đó. Điều này hay có trong các lãnh vực hoạt động nghệ thuật và văn học, đôi khi kể cả ý hướng xã hội hoặc triết học. Như chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa trừu tượng, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa lãng mạn chẳng hạn. Nhưng thường trong hơn thế kỷ qua, chủ nghĩa hay được gắn với quan điểm chính trị và thực hành chính trị, trong đó chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa mác xít lêninít, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa chuyên chính vô sản, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cách tân, chủ nghĩa xét lại, và nhiều thứ chủ nghĩa khác nữa vẫn hay thường được nói đến nhất.
Nhưng ở đây tựu trung chúng ta cần hay muốn nói đến chủ nghĩa xã hội là gì. Ý niệm chủ nghĩa xã hội thật ra về mặt lịch sử của nó có hai trào lưu hay hai khuynh hướng mục đích. Về mặt truyền thống, chủ nghĩa xã hội là ý nghĩa bao quát nhất, nhằm nhấn mạnh hay đề cao mục đích và yêu cầu hay giá trị xã hội là trước nhất. Nó ngược lại với chủ nghĩa vị kỷ hay ý hướng cá nhân chỉ côt nhấn mạnh hay quan tâm lợi ích và quyền lợi riêng tư, cá nhân của mỗi người trước hết. Có người cho đó là quan điểm ích kỷ, đi ngược lại với quan điểm xã hội là quan điểm rộng rãi, bao quát, quan điểm vị tha, quan điểm nhân loại, quan điểm cộng đồng, và quan điểm nhân bản. Nói khái quát, chủ nghĩa xã hội hay quan điểm xã hội nhìn mặt ngoài nó cao quý, rộng rãi hơn quan điểm vị kỷ hoặc cá nhân. Tuy vậy, đó là nhìn chủ nghĩa cá nhân theo hướng tiêu cực, theo ý nghĩa hoặc nội hàm xấu.
Trái lại quan điểm cá nhân chính đáng, được hiểu sâu sắc, cũng không phải hoàn toàn xấu hay hoàn toàn tiêu cực. Bởi cá nhân là yếu tố thiết yếu tạo thành xã hội, và mục đích chung nhất của xã hội là nhằm bảo vệ mọi tính chính đáng của cá nhân mà không gì khác. Không có cá nhân làm sao có xã hội. Vả lại chính cá nhân con người mới là thực thể khách quan nhất, trong khi ý niệm xã hội chỉ là ý niệm trừu tượng hóa, khái quát hóa, không phải là khái niệm thực thể hay thực chất, nhưng chính mọi cá nhân nói chung đang tồn tại mới là thực tại xã hội mang tính thực chất nhất. Do vậy, nếu quan niệm chủ nghĩa xã hội như lấn át, như loại bỏ ý nghĩa cá nhân là hoàn toàn vô lý và không đúng. Chính mọi cá nhân chính đáng mới tạo thành xã hội chính đáng, quên lãng cá nhân hay bất chấp cá nhân cũng không còn là quan điểm xã hội chính đáng được nữa. Có nghĩa chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không mâu thuẫn với chủ nghĩa cá nhân chính đáng mà còn bổ sung và hỗ trợ cần thiết cho chính nó. Như vậy vấn đề không phải là chủ nghĩa mà là cách hiểu, cách nhìn về chủ nghĩa như thế nào mới là điều thiết yếu cần nói đến. Từ đó cũng thấy được chủ nghĩa xã hội theo cách truyền thống hay cổ điển hoàn toàn không đi ngược mà còn gắn liền với ý nghĩa tự do dân chủ của xã hội mà mọi người đều biết.
Trong khi đó chủ nghĩa xã hội theo quan điểm mác xít lêninít là gì đó là điều phải cần nên đi sâu phân tích. Các Mác [Karl Marx] chính là người đưa ra toàn bộ học thuyết này. Ănghen [Friedrich Engels] chỉ là người phụ họa chút đỉnh cho Mác. Nhưng Lênin [Lenin] là người thực hành đầu tiên dựng lên được Nhà nước Xô Viết Liên Xô tháng 10 năm 1917 được gọi là Cách mạng tháng Mười, tức Cộng sản Đệ tam quốc tế đầu tiên. Các trước tác từ đó của Lênin thật ra cũng chỉ cụ thể hóa các mặt lý luận cụ thể về những quan điểm do Mác đã đưa ra mà không có gì mới. Đại thể về mặt chính trị, tức chủ nghĩa chính trị xã hội mác xít, Mác chủ trương đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, coi giai cấp công nhân thời đó như lực lượng tiên phong của công nghiệp mọi mặt để đi tới xóa bỏ mọi giai cấp nhằm đi đến xã hội không giai cấp gọi là xã hội xã hội chủ nghĩa như bước đầu của giai đoạn cuối cùng là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xã hội đó theo Mác hiểu là dẹp bỏ mọi hình thức kinh tế thị trường, thủ tiêu mọi định chế về tài chánh, tiền tệ, phân công lao động tự phát kiểu thị trường, cuối cùng chỉ còn lại xã hội vận hành theo kế hoạch tự giác, lao động và phân chia thành quả lao động theo cách trực tiếp, mà đích cuối được Mác chủ trương là mọi người được làm theo lao động hưởng theo nhu cầu trong xã hội.
Ở đây chúng ta không nói về mặt triết học, không nói về mặt xã hội học hay kinh tế học theo ý nghĩa khoa học khách quan của chúng có liên quan đến học thuyết Mác hay theo quan điểm của Mác. Chúng ta chỉ nói quan niệm về chủ nghĩa xã hội mà Mác đề ra cách đây trên hai thế kỷ. Quan niệm chủ nghĩa xã hội đó chủ yếu là hình thức tổ chức mặt ngoài của xã hội. Có thể nói Mác là người sính quan niệm về tổ chức, quan niệm về hình thức bên ngoài, cũng có thể nói mặt nào đó Mác là người duy hình thức, duy chủ nghĩa hình thức theo kiểu lấy hiện tượng hay hiện trạng kết cấu, tổ chức bên ngoài của xã hội làm nguyên tắc chủ động. Tức mỗi cá nhân phải đưa vào trong hình thức tổ chức xã hội toàn diện thật sự. Nghĩa là xã hội trở thành một bộ máy, một hoạt động bao quát toàn diện và đầy đủ nhất mà trong đó mỗi cá nhân như một yếu tố cấu thành không thể thiếu. Đó là cái được Mác gọi là thời kỳ quá độ, và thời kỳ quá độ này được Mác xem như tối yếu cần thiết để đi tới xã hội hoàn toàn vận hành tự động hóa tuyệt đối tự giác, tự chủ về sau. Rõ ràng đây là bộ máy cơ giới khổng lồ vĩ đại bao gồm toàn bộ xã hội trên toàn thế giới mà không còn phân biệt bất kỳ ranh giới nào cả.
Tư tưởng đó được Mác gọi là tư tưởng khoa học, và học thuyết Mác được Mác quan niệm là học thuyết khoa học, nhất là chủ nghĩa xã hội như nói trên của Mác cũng được cho là chủ nghĩa khoa học, do vậy mà xã hội cộng sản cuối cùng cũng được Mác mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản khoa học. Bởi vậy chính ngoại hàm khoa học này hay danh hiệu khoa học này của Mác tự nhận định hay tự gắn cho mình ngay từ đầu là điều hấp dẫn với tất cả mọi người có khuynh hướng mác xít hay cụ thể là mọi người cộng sản lúc đó. Bởi vì ý tưởng khoa học gợi lên cho người ta sự vững chải và sự chính xác cũng như đúng đắn tuyệt đối. Người ta liên tưởng đến các khoa học khách quan như toán học, khoa học tự nhiên thuộc mọi lãnh vực nói chung. Do vậy người ta cho rằng chủ nghĩa Mác hay xã hội cộng sản là nhất thiết thực hiện được, vì nó chẳng qua là một guồng máy xã hội kiểu cơ giới hoàn toàn vĩ đại, toàn diện, tuyệt đối và bao quát nhất, tất cả mọi chuyển động hay vận động trong đó có khác gì như mọi vận động trong thế giới vật chất khác nhau nhưng đều cùng chung một quy luật, đó gọi là biện chứng duy vật và biện chứng lịch sử. Nhưng nếu người nào có đi sâu nghiên cứu về mặt triết học, nhận ra rằng ý tưởng khoa học thật sự bắt nguồn từ Hegel rồi mới được chuyển vào trong học thuyết Mác.
Hegel là nhà triết học duy tâm đồ sộ và vĩ đại của Đức. Ông ta chủ trương quy luật biện chứng là quy luật tồn tại và vận hành chung của mọi sự vật trong thế giới hay là toàn bộ thế giới. Biện chứng có nghĩa là phát triển theo ba giai đoạn được khái lược hóa là tiền đề, phản đề, và hợp đề. Tiền đề là giai đoạn dữ kiện đầu tiên. Phản đề là sự tự phủ định của giai đoạn tiền đề. Cuối cùng hợp đề là giai đoạn tự phủ định của giai đoạn phản đề, nghĩa là sự kết thúc hay giai đoạn cuối cùng hoặc tột cùng cao nhất của lịch sử. Vì quan niệm đây là quy luật khách quan nhất về mọi sự vật hay về toàn bộ thế giới vũ trụ mà ông ta nghĩ ra, nên nó tuyệt đối đúng đắn và duy nhất giá trị, nên từ đo Hegel tự cho mình là tư tưởng khoa học nhất, khoa học hơn mọi khoa học, tức là khoa học bao quát tuyệt đối nhất. Mác hoàn toàn tin tưởng vào lý luận của Hegel, lấy biện chứng luận như trên của Hegel làm chủ đạo, lấy quan điểm phủ định của phủ định về mặt lịch sử của Hegel chủ trương để áp dụng vào do toàn bộ học thuyết Mác, bởi vậy nền tảng để Mác tự cho hay tự mệnh danh học thuyết ông ta là một hoc thuyết hoàn toàn mang ý nghĩa cùng giá trị khoa học tuyệt đối và đầy đủ là như thế. Như vậy thực sự cơ sở của nó chỉ là cơ sở về niềm tin mà không gì khác, vì không có gì chứng minh cụ thể đối với tất cả mọi điều đó về mặt khoa học cụ thể và mang tính hệ thống đầy đủ một cách khách quan cả.
Đó là chưa nói Hegel người tiền bối, tiên phong, hay ông thầy của Mác, lại chính yếu là nhà triết học duy tâm. Có nghĩa tư tưởng hay tư duy triết học của Hegel hoàn toàn và tuyệt đối có nền tảng duy tâm. Tức Hegel không cho vật chất thuần túy như là nền tảng hay tiền đề nguyên thủy của thế giới, của vũ trụ vạn vật. Trái lại Hegel cho yếu tố đó chính là tinh thần, nghĩa là một thực tại siêu việt hơn hẳn vật chất, và bản thân thiêng liêng vô hạn của nó là nguồn gốc của quy luật biện chứng như trên đã nói. Có nghĩa biện chứng luận của Hegel là biện chứng mang tính hoàn toàn duy tâm, đặt nền tảng trên yếu tố tinh thần, tinh thần khách quan tự nhiên của vũ trụ toàn diện, cũng như tinh thần phát triển trong lịch sử của nhân loại, không phải là vật chất chai lỳ như Mác quan niệm là làm nền cho tất cả mọi điều đó hay cho chính quy luật biện chứng khách quan đó. Vậy thì tính vô nguyên tắc, tính bạt mạng, tính khiên cưỡng, tính giả tạo, tính cưỡng ép của học thuyết duy vật biện chứng của Mác cũng như duy vật lịch sử của Mác là như thế, bởi vì chỉ là chuyện đem râu ông nọ cắm cằm bà kia, kiểu đầu Ngô mình Sở, thế thì làm gì còn khách quan, còn chính xác hay còn xác đáng được nữa.
Tuy vậy quan điểm duy vật biện chứng và quy vật lịch sử do Mác phiên dịch từ nền tảng trái cựa duy tâm của Hegel lại thành cái xương sống, cái bản lề quyết định cho toàn bộ học thuyết Mác. Vì không có nó học thuyết Mác cũng không thể nào trụ vững được nữa, không thể nào còn mang ý nghĩa hay giá trị được nứa; chính sự lầm lẫn là như thế, có nghĩa Mác chỉ ngụy biện, tự lừa dối mình, tự ngụy tín và đồng thời cũng đi đến lừa dối mọi người khác hay lừa dối thế giới thậm chí lừa dối cả lịch sử là như vậy. Xuất phát điểm sai thì đích cũng không bao giờ tới được, đó là cái oái oăm của học thuyết Mác. Bởi vì điều đơn giản và sơ đẳng nhất mà Mác lại không tự hiểu hay không thèm hiểu đến, đó là vật chất thuần túy thì làm sao mà “tự biện chứng” được. Vật chất thuần túy vì ù lỳ, nọa tính, không có bất kỳ nội hàm nào ngoài bản thân chính nó, thế thì nó chỉ có thể bị phủ nhận bởi cái khác bên ngoài nó,còn nó thì không thể nào tự phủ định để thành cái khác, vì bao giờ nó cũng chỉ là nó mà không thể là cái khác. Cho dù có đập nhỏ mãi một viên sạn thì đó cũng chỉ là chất sạn sõi, nó không thể biến thành cái cây hay sinh vật. Nên chủ nghĩa duy vật do Mác quan niệm thật sự chỉ là quan niệm về hiện tượng sự vật bên ngoài, không mang mọi tính chất đầy đủ bao quát gì của sự vật về mặt vũ trụ toàn diện bao quát cả. Quan điểm duy vật của Mác về mặt triết học chỉ là quan điểm hồn nhiên ngây thơ của một đứa trẻ chẳng bao giờ là quan điểm của một nhà triết học nghiêm túc đầy đủ bao quát và toàn diện được.
Nhưng cũng chính từ quan điểm triết học hoàn toàn lơ lững kiểu con cá vàng như thế, Mác đã đưa lại quan điểm về học thuyết kinh tế chính trị xã hội sai lầm mà ai cũng biết. Dùng quan niệm phủ định của phủ định Mác lý luận chủ nghĩa kinh tế tư bản phải tự phủ định nó để đưa lại xã hội xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế phi thị trường xã hội chủ nghĩa. Tức nền kinh tế dẹp bỏ mọi quy luật khách quan tự phát của chính nó để chuyển sang nền kinh tế hoàn toàn chủ quan kế hoạch hóa như Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu từng một thời áp dụng hoàn toàn thất bại mà về sau được gọi thẳng tên là nền kinh tế bao cấp. Sự phong thánh giai cấp công nhân công nghiệp thời Mác do Mác chủ trương như giai cấp tiên tiến, giai cấp tiền phong, giai cấp mang sự mạng lịch sử thực chất cũng không đi ra ngoài điều cốt lõi của quan niệm phủ định của phủ định như là ý nghĩa bản lề như vậy. Như vậy quan điểm xã hội chủ nghĩa hay chủ nghĩa xã hội mác xít do Mác đưa ra thực chất chỉ là quan điểm giáo điều về mặt lý thuyết mang tính tưởng tượng mà không gì khác. Bởi khi nói khoa học thì phải đi từ các dữ kiện thực tế, và phải được kiểm chứng bằng thực tế, cũng như áp dụng hay vận dụng từ các quy luật thực tế. Đằng này Mác thực ra chỉ lý luận suông, một chiều, không cần dữ liệu cụ thể, không cần nguyên lý khách quan, không cần kiểm chững thực tế, chỉ có niềm tin suông đưa đến lý luận suông thế thì còn gì gọi là khoa học như Mác từng tin chắc và tuyên bố.
Cho nên mọi trước tác và quan niệm của Mác đưa ra thực tế chỉ phiến diện hoặc thổi phồng về các sự kiện. Các ý niệm then chốt đó trong học thuyết kinh tế chính trị của Mác nêu lên như thuyết bóc lột, thuyết giá trị thặng dư, thuyết ý thức giai cấp, thuyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và tư liệu sản xuất, giữa sở hữu sản xuất và hiệu quả sản xuất chẳng hạn, thực chất chỉ nhìn chủ yếu ở khía cạnh kinh tế vi mô mà không đạt đến được tầm nhìn vĩ mô của xã hội và lịch sử luôn cần phải có. Mác hoàn toàn không hiểu, không quan tâm, không đề cập gì đến các ý nghĩa của quy luật thị trường, quy luật cạnh tranh trong kinh tế xã hội, quy luật tái sản xuất, tái phân phối, sản xuất mở rộng và sản xuất cập nhật hay đổi mới trong kinh tế. Từ đó Mác cũng không nhận thức hết vai trò và ý nghĩa của công nhân cũng như của nhà tư bản. Mác nhìn lệch quan điểm về người công nhân và giai cấp công nhân. Thật ra quy luật người công nhân hay giới công nhân hoặc giai cấp công nhân đều không thoát ly được quy luật tâm lý con người nói chung. Từ đó Mác thành mê tín và mù quáng về giai cấp công nhân, hiểu sai thì chỉ làm hai cho giai cấp công nhân, làm hại cho xã hội mà thật ra không làm lợi cho họ hay làm lợi cho xã hội.
Đúng ra con người ai cũng như nhau, cùng chịu chi phối bởi các quy luật tâm lý cá nhân, tâm lý và quy luật xã hội giống nhau. Có nghĩa mỗi cá nhân luôn tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mình, của xã hội khi ra đời, chịu các quy luật bí mật nào đó khác, do đó không phải ai cũng như nhau, đó là chưa nói còn kết quả do tâm sinh lý tự nhiên bẩm sinh, do đào tạo và học vấn từ xã hội, do các nổ lực cũng như phẩm chất năng khiếu sở thích riêng, thôi thì đủ thứ. Giai cấp chỉ là cấu trúc xã hội luôn luôn có cách tự nhiên khách quan nhưng không phải bao giờ cũng bất biến hoặc cứng nhắc. Do đó dựng quy luật đấu tranh giai cấp như nền tảng cơ bản, tất yếu, quả thật Mác chỉ gàn dở và mê tín. Quy luật đấu tranh là quy luật tự nhiên của mọi loài sinh vật, đó là một bộ phận hay khía cạnh nhất định của luật đấu tranh sinh tồn và phát triển phổ quát. Chỉ phiên dịch nó ra cách gán ép kiểu tiên kiến là đấu tranh giai cấp thì thật bất chấp mọi tính khách quan cũng như mọi tính quy luật khác. Cái ngây thơ, cái ngố, hay cái võ đoán và cố chấp của Mác là chính như thế. Mác nói xã hội loài người từ trước đến nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp, thật sự chỉ là kiểu hô khẩu hiệu chính trị phiến diện và nhằm sách động. Đúng ra xã hội con người phát triển là do khoa học kỹ thuật cũng như do văn minh văn hóa phat triển. Nhưng khoa học là do trí tuệ, kể cả đôi khi còn chỉ là do sự ngẫu nhiên tình cờ mang lại. Còn phát triển về văn hóa, nhận thức, đạo đức, văn minh là do yếu tố tinh thần là chính yếu, không phải chỉ thuần yếu tố vật chất thuần túy.
Quan điểm duy vật của Mác thật sự chỉ là quan điểm phiến diện và nông cạn, vậy mà nó làm cốt lõi để Mác giải thích tất cả, cho rằng sự phát triển của thượng tầng kiến trúc của xã hội loài người là hoàn toàn do phát triển cơ sở hạ tầng quyết định. Đây chỉ là quan điểm cơ giới máy móc tầm thường mà Mác không bao giờ giải thích nổi tại sao có mối tương liên qua lại giữa chúng. Tức học thuyết Mác chỉ chủ yếu phán bừa mọi sự mà không bao giờ tìm cách lý giải sâu xa các nguyên nhân cụ thể rạch ròi của chúng về mặt khoa học. Nói cách khác, quan điểm của Mác luôn luôn là quan điểm tiền chế, áp đặt, cả vú lấp miệng em, đầy thiên kiến, chẳng khi nào chịu khó có cái nhìn khách quan về mặt thực tế các sự vật cả. Cho nên cuốn thánh kinh trước đây về học thuyết Mác là cuốn Tư bản luận, thật ra đây không phải cuốn đại luận về kinh tế xã hội lịch sử như phần lớn các người cộng sản hiểu lầm mà thật ra nó chỉ kiểu gọt chân cho vừa giầy về mặt lý luận. Tức Mác đã triết lý hóa kinh tế xã hội và lịch sử một cách vô lối, hoàn toàn phi kinh tế và phi xã hội. Giống như đặt con trâu sau cái cày. Chiếc giầy đó là chiếc giầy biện chứng luận, cái cày đó là chủ nghĩa xã hội mác xít, chủ nghĩa cộng sản mác xít, và kinh tế xã hội là bàn chân bị gột, cũng như giai cấp công nhân là con trâu phải ủi cái cày tiến tới. Nhưng thật ra trong thực tế giai cấp công nhân trong các nhà nước theo quan niệm xã hội chủ nghĩa mác xít đều cũng chỉ là giai cấp thừa hành còn quyền hành lãnh đạo vẫn nằm trong tay mọi người quản lý chính trị mà không hề khác.
Thế thì kinh tế tư bản hay xã hội tư bản chỉ là quy luật phát triển khách quan của lịch sử bị Mác xuyên tạc méo mó thành ra kiểu tự đào mồ chôn nó. Đó là lý luận không có căn cứ, vì chỉ nhằm lý giải cho thuyết biện chứng chủ quan và võ đoán. Bởi nếu tự đào mồ chôn nó thì nó đã tự chôn lâu rồi không cần phải có sự tác động thất bại từ ngoài của chủ thuyết Mác. Thật ra xã hội tư bản hay tư sản có nhiều yếu tố hay thành phần dân sự cấu thành. Mỗi yếu tố đó là mọi thành phần hay giai tầng của xã hội. Nhưng biểu trưng đi đầu nhất là giới khoa học kỹ thuật, giới văn hóa, từ đó phát sinh ra mọi nghiên cứu khoa học, mọi thành tựu kỹ thuật, để từ đó giới doanh nhân là lực lượng nhạy bén tiên phong nhất khai thác áp dụng chúng, cuối cùng máy móc với giai cấp công nhân tạo ra mọi sản phẩm ích lợi dùng chung cho toàn xã hội. Nguyên tắc cạnh tranh, nguyên tắc phát kiến, nguyên tắc kết hợp và hòa hợp, đó luôn là các nguyên tắc đồng bộ trong toàn xã hội, tức xã hội vĩ mô mà Mác không bao giờ chịu để ý tới hay không cần biết tới. Sự đi lộn sân của Mác chính là như vậy, tức làm những việc ruồi bu vô bổ, như triết lý hóa về kinh tế xã hội chính trị, đều là những việc làm ảo tưởng, phi thiết thực và không giá trị. Bởi triết học thuộc lãnh vực tư duy phổ quát. Trong khi đó kinh tế xã hội chính trị chỉ là những hoạt động thực tế của thế giới loài người. Chính khoa học kỹ thuật xã hội chi phối bằng nghiên cứu và bằng áp dụng cho các phạm vi đó mà không cần gì đến triết học theo cách vô bổ và vô tích sự mà Mác đã ngây thơ và hợm hĩnh chọn phải.
Như thế cái gọi là chủ nghĩa xã hội trong học thuyết Mác hay xã hội chủ nghĩa theo kiểu nói ngược lại như cách lập dị hay nhấn mạnh nào đó là theo nghĩa như thế. Tức theo nghĩa điều xảy ra không có thực mà không theo nghĩa thực chất, thực tế hay khoa học khách quan nào cả. Bởi vì theo cách tiếng Việt, khi nói chủ nghĩa xã hội là người ta muốn nhấn mạnh vào ý nghĩa xã hội hơn là ý nghĩa của chủ nghĩa. Trái lại, khi đặt ngữ nghĩa ngược lại, tức điều người ta muốn nhấn mạnh hay quan tâm là ý niệm chủ nghĩa hơn là ý niệm xã hội. Kiểu chơi chữ này cũng chưa thấy ai giải thích hay giải thích được hợp lý, có chăng chính những người cộng sản thật sự. Hay đó cũng chỉ là cách phiên dịch nào đó từ tiếng Trung Quốc hay tiếng Nga ra chăng, điều này chắc phải nhương lại cho những nhà ngôn ngữ chính trị học. Vậy nói chung lại, khái niệm chủ nghĩa xã hội theo kiểu truyền thống cổ điển hay tiền mác xít hoàn toàn khác hẳn hay đối ngược lại với quan điểm chủ nghĩa xã hội hay xã hội chủ nghĩa theo thuyết Mác xít. Bởi khái niệm trước là khái niệm hoàn toàn phù hợp, dung hợp, hòa hợp với xã hội dân sự, với quan điểm dân chủ tự do của xã hội truyền thống đã luôn luôn có. Xã hội có nghĩa là nhấn mạnh đến giá trị chung, đến ý nghĩa và mục đích chung của mọi người, của toàn xã hội mà không gì khác. Nó không đòi hỏi bất kỳ hình thức tổ chức bên ngoài nào mà đó chỉ là ý thức tự do tự nguyện của mỗi người cũng như của tất cả mọi người trong ý nghĩa chung nhất, bao quát nhất và cao cả nhất.
Trong khi đó, khái niệm chủ nghĩa xã hội hay xã hội chủ nghĩa kiểu mác xít không gì khác hơn là quan điểm tổ chức chặt chẽ và hình thức về xã hội. Ở đây không còn là quan điểm xã hội tự phát hồn nhiên hay cao cả của mỗi người hoặc mọi người nữa, nó trở thành một sự cưỡng chế, sự bó buộc, để đi vào hình thức tổ chức toàn diện được gọi là xã hội toàn trị. Tức quản lý chặt chẽ có hệ thống từ A đến Z mọi mặt. Đó là cái mà từ thời ông Lê Duẩn người ta đã thường nói đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Nhân dân tức mọi người được đưa vào guồng máy, phải vận hành tuyệt đối theo quy luật của guồng máy. Nhà nước là công cụ hành chánh đảm nhiệm quy trình trật tự đó. Còn đảng là bộ phận chỉ huy toàn diện đối với toàn bộ quy trình vận hành đó. Từ đó cũng chẳng cần trí thức, không cần và không cho phép phản biện. Bởi vì nói theo nghĩa tốt là đã có định hướng, đã có tiền chế về mọi nguyên tắc. Còn nói theo nghĩa xấu là theo cách giáo điều máy móc hay tuyệt đối bảo thủ. Bởi trí thức hay phản biện thì có thể làm chệch theo hướng khác, có thể trở thành xét lại, đó là điều mà ngay từ đầu xưa kia Liên Xô và Trung Quốc đã hoàn toàn cấm kỵ, cho mãi đến Yelsin và Đặng Tiểu Bình thì cũng hết be bờ nổi và đã hoàn toàn theo hướng đổi mới tức cò n tiến xa hơn cả xét lại mà từ trước luôn bị cấm đoán. Điều đó cũng có nghĩa ý niệm chủ nghĩa xã hội theo cách của Mác chỉ là quan điểm thuần túy hình thức, chỉ lấy sự tổ chức bề ngoài làm thị hiếu và mục đích, đi ngược lại mọi quan điểm xã hội khách quan và hồn nhiên tốt đẹp của con người, khiến nó trở thành máy móc, giả tạo, và dĩ nhiên nói cho cùng nhiều khi nó thành tác dụng ngược lại là phản xã hội, phản nhân văn mà thời Stalin và thời Mao Trạch Đông cũng như thời Bắc Triều Tiên hiện nay mọi người đều nhìn thấy rõ.
Vậy để kết luận, phải chăng từ hai ý niệm chủ nghĩa xã hội và xã hội chủ nghĩa hoàn toàn đối chọi đó, tức một bên chủ nghĩa xã hội phi mác xít và một bên chủ nghĩa xã hội duy mác xít về mục đích xã hội chung như thế mà ngày nay chính tôi, người viết bài này muốn đưa ra một giải đáp hay giải pháp mới, hoàn toàn mới, đó gọi là chủ nghĩa tân xã hội hay tân chủ nghĩa xã hội? Điều này có lẽ hay chắc hẳn hoàn toàn đúng, tùy theo người ta hiểu. Bởi vì tân là cái gì đó hoàn toàn mới, không còn cựu nữa. Nhưng tân cũng không phải cái gì phá lề phá cách không còn phải nó là nó nữa. Có nghĩa chủ nghĩa xã hội cổ điển truyền thống trước kia theo cách hồn nhiên, tư nhiên, khách quan của nó đã hoàn toàn bị chủ nghĩa xã hội theo kiểu mác xít tức xã hội chủ nghĩa phá bỏ, ít ra cũng trong thế giới cộng sản hay nước cộng sản trong quá khứ. Điều đó khiến nó hoàn toàn bị quên lãng, ít khi còn nói đến nữa, không còn tác dụng gì trong thực tế hay thực chất nữa. Nó bị cái nhân danh nó nhưng sai trái đào thải, và cả cái đi đào thải nó cũng tự đào thải nốt, đó là ý nghĩa tại sao thực tế trong các nước cộng sản nói chung xưa và nay, chủ nghĩa xã hội xác đáng không còn nữa mà chỉ còn chủ nghĩa xã hội nửa vời hay thậm chí chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa ích kỷ, chủ nghĩa cơ giới máy móc trong cuộc sống khuynh loát tất cả mà khó tìm ra được những con người lý tưởng hồn nhiên với chủ nghĩa xã hội hoàn toàn tự phát, cao đẹp và hoàn toàn lý tưởng. Nhưng ở đây chúng ta không thể nói suông, lý luận suông, mơ tưởng hay quan điểm suông mà phải quay về lại với những nền tảng, những dữ kiện, những hiểu biết, đồng thời những nguyên lý và nguyên tắc khách quan cũng như khoa học nền tảng thật sự. Thật vậy, chúng ta sẽ phân tích rõ ràng và cụ thể qua một số điểm căn bản.
1. Nền tảng khoa học khách quan của Tân Chủ nghĩa Xã hội
Tân Chủ nghĩa Xã hội hay chủ nghĩa xã hội mới đương nhiên phải có nền tảng riêng bắt buộc của nó, nhưng không thể dùng lại bất kỳ nền tảng nào của các chủ nghĩa xã hội trước nó, tức chủ nghĩa xã hội truyền thống và cổ điển theo nghĩa duy tâm cũng như chủ nghĩa xã hội hay xã hội chủ nghĩa mác xít theo kiểu duy vật.
Duy tâm có thể là quan điểm đúng nhưng đó là quan điểm riêng của một số người, không bắt buộc một số những người khác phải chấp nhận điều đó, vì còn tùy những hiểu biết riêng của họ. Duy vật tất nhiên là quan điểm nông cạn dù nó thực tế, nên cũng không thể bắt buộc những người khác phải khung theo nó. Tùy theo những kinh nghiệm sống riêng của họ. Nói khác quan điểm triết học và quan điểm tôn giáo là quan điểm hoan toàn lựa chọn theo quyền tự do và hiểu biết riêng của mỗi người, không gượng ép, không cưỡng chế, hay không ai được quyền bó buộc ai cả.
Điều này hoàn toàn khác với quan điểm độc đoán độc tài của Mác, lấy sự hiểu biết nào đó của mình làm thành cái rốn của vũ trụ rồi bắt toàn thể nhân loại phải phụ thuộc theo đó. Đó là ý nghĩa chủ quan, không lành mạnh, thậm chí là hoàn toàn phi lý, thô kệch và ngốc nghếch. Nói cách khác, cái gì vượt ra ngoài, vượt lên trên tồn tại cụ thể, vượt ra ngoài, vượt lên trên con người cụ thể, vượt ra ngoài vượt lên trên thế giới nhân loại cụ thể, cái đó thuộc về siêu hình học, thuộc về triết học, thuộc vũ trụ quan riêng của mỗi người, thuộc tôn giáo hay tín ngưỡng mọi loại, không thể chà đạp, cưỡng chế hoặc ép buộc!
mọi người phải tuần theo đó. Chủ nghĩa chỉ là quan điểm sống và hành động thực tế trong sự hòa hợp chung cho mọi mục tiêu tốt đẹp của cộng đồng và nhân loại mà không gì khác.
2. Nền tảng Nhân văn Khoa học của Tân Chủ nghĩa Xã hội
Mỗi người là một con người đó là điều dĩ nhiên, nên phải cư xử với mình như con người, với người khác như con người, với mọi người cũng thế, tức với xã hội cũng thế, cũng như ngược lại. Mọi người đều phải đối xử với nhau bình đẳng như những con người, đó là nền tảng hay nguyên tắc nhân văn trước tiên nhất. Nhưng con người không phải từ trời rơi xuống. Xã hội loài người tiến hóa và phát triển theo dòng lịch sử vạn vật và lịch sử nhân loại. Đó là ý nghĩa con người phải gắn với đồng loại, với xã hội, với môi trường sống của chính chủng loài mình. Môi trường giống như ngôi vườn, ngôi nhà chung của thế giới. Xã hội giống như gia đình hay ngôi nhà chung của mỗi người. Như vậy việc giữ gia đình cho hòa thuận, cho ngôi nhà, ngôi vườn mình ở sao cho sạch đẹp, đó là yêu cầu cần thiết tự nhiên khách quan, chẳng có gì ghê gớm hay lạ thường cả.
Nhân văn có nghĩa lấy con người làm gốc, lấy xã hội làm nguồn, lấy thiên nhiên làm mặt bằng sinh hoạt. Con người ai lại không cần gốc, cần nguồn, cần mặt bằng sinh hoạt, ý nghĩa chân chính của nhân văn phải là như thế. Nhưng con người không phải chỉ duy nhất thân xác, con người còn có ý thức và tinh thần. Thân xác là điều kiện cần để con người tồn tại, không phải điều kiện đủ để con người thành người. Con người thành người là nhờ có khoa học kỹ thuật, nhờ văn minh văn hóa, nhờ tình cảm cao đẹp, nhờ trí tuệ và tinh thần nhân bản, đó là nền tảng sâu xa và ý nghĩa quyết định nhất của nhân văn. Nhưng nhân văn không phải chỉ có cảm tính hay trực quan là đủ. Nhân văn phải có trí tuệ và tinh thần. Con tim lành mạnh cao quý, trí óc sáng suốt khai phá, đó là yếu tố không thể thiếu của nhân văn. Nhân văn cũng không phải chỉ biết đến mình, đến những người chung quanh, mà cả đến thế giới chung quanh, đến muôn loài chung quanh, đến vũ trụ chung quanh. Đấy ý nghĩa nhân văn không phải chỉ hạn hẹp trong con người hay xã hội mà con bao quát hết mọi điều có liên đới đến con người chính là như thế.
Ý nghĩa của nhân văn cũng thiết yếu gắn liền với khoa học là như thế. Bởi khoa học vừa là sức mạnh vật chất vừa là sức mạnh tinh thần của nhân văn chỉ là ý nghĩa khách quan không thể nào chối bỏ.
3. Nền tảng Xã hội Khoa học của Tân Chủ nghĩa Xã hội
Mỗi con người đều sống trong xã hội, cho dầu đang ở tại một nơi nào trên thế giới này cũng vậy. Trong rừng sâu hay ngoài hoang đảo cũng thế. Bởi vì họ không thể tự nhiên xuất hiện mà đã phải từ đâu mới đến được đó. Có nghĩa xã hội như một nơi chốn hay không gian sống bàng bạc vốn đã có từ đầu mà cá nhân con người không khi nào thoát ly ra được. Nhưng xã hội cụ thể nhất lại là mọi người chung quanh chúng ta, là dân tộc mà mỗi người là thành viên, là nhân loại nói chung mà trên địa cầu từ lâu vốn có mặt. Thế thì xã hội là một thực tế, là nguồn gốc của cá nhân mỗi người, là môi trường sống chung và điều kiện tồn tại thường xuyên của mỗi người, hay có khi còn là mục đích sống cho nhiều người. Sự yêu thích hay không yêu thích xã hội nhiều khi chỉ là tâm lý tùy trường hợp hoàng cảnh mỗi người, nhưng chối bỏ xã hội là không thể được, giống như không ai chối bỏ được cái bóng của mình ở một nơi nào đó cả. Điều đó có nghĩa làm cho xã hội tốt cũng là làm cho mình tốt, làm cho mọi người như mình được tốt. Còn làm xấu cho xã hội lại là ý nghĩa ngược lại. Quan điểm về xã hội là như thế, đó là quan điểm hoàn toàn thực tế mà chẳng phải cái gì giả tạo hay hoàn toàn đặt bày ra cả. Từ đó cũng thấy rằng chủ nghĩa xã hội tức quan điểm vì xã hội nếu có cũng chẳng phải là điều gì ghê gớm, quan trọng hay phải gò lưng để bưng đội hay đưa nó lên theo cách mê đắm. Nó chỉ là sự thực khách quan và thực tế hiển nhiên bình thường vậy thôi.
Nói vậy cũng có nghĩa xã hội và cá nhân con người như hai vế của một phương trình cân bằng. Phương trinh thì không có nghĩa vế nào kém vế nào hay có thể thiếu về nào. Bởi như vậy chỉ còn bất phương trình hay phương trình triệt tiêu. Có nghĩa cá nhân là đơn vị nhỏ nhất của xã hội. Ngược lại xã hội là bội số lớn nhất của cá nhân thế thôi. Điều này cũng có nghĩa không có yếu tố trung gian nào thường xuyên chen vào giữa hai thực tại đó cả. Giai cấp không phải yếu tố kiểu đó. Chỉ cộng đồng chung hay là đất nước mới là yếu tố kiểu đó. Cho nên khi Mác chủ trương đấu tranh giai cấp là một chủ trương mê tín, bởi giai cấp chỉ là khái niệm biểu trưng, được trừu tượng hóa hay khái quát hóa từ những tập hợp về con người nào đó, nó không phải là thực thể những con người mà chỉ là sự ký hiệu về những lớp con người cụ thể nhất định. Sự hiểu sai về khái niệm, từ ngữ, về công năng của chúng, đó là sự nhầm lẫn tai hại nếu không nói đó là sự dốt nát mang lại nhiều hậu quả hết sự nguy hiểm và nghiêm trọng của học thuyết Mác.
Có nghĩa quan điểm của chủ nghĩa Tân xã hội không phải kiểu chủ nghĩa nhìn con người và xã hội theo cách máy móc, cơ giới cũng như tầm thường, thấp kém và tai hại của Mác. Đấu tranh giai cấp là đấu tranh quyền lợi và vật chất. Nếu nó không chính đáng hay chỉ là sự thêu dệt giả tạo, nó làm hạ giá con người, hạ giá xã hội, làm tầm thường hóa con người, làm tầm thường hóa xã hội, điều đó cho thấy Mác không phải là một nhà tư tưởng hay kể cả tư tưởng chính trị nghiêm túc, sâu sắc, mà chỉ là quan niệm của một nhãn quan tầm thường, nông cạn. Trái lại với quan điểm đó của Mác, quan điểm của học thuyết hay chủ nghĩa Tân xã hội là quan niệm xã hội nhân văn thật sự. Nghĩa là cá nhân sống không quên xã hội và xã hội tồn tại không coi thường hay bất chấp cá nhân mà hoàn toàn trái lại. Sự hài hòa thiết yếu và tự nhiên của hai bên là thế. Đó là quan điểm khách quan tự nhiên mà không phải chủ quan một cách làm dáng hoặc giả tạo hay thậm chí giả dối. Nói khác đây là quan điểm vừa tình cảm vừa lý trí, tức vừa lý tính mà không phải chỉ thuần túy lý trí hay cảm tính. Con người nhân văn trong xã hội nhân văn, đó là sự hòa hợp, sự hòa đồng tự nhiên mà không phải được gò ép hay xây dựng giả tạo chuộng hình thức bên ngoài như quan điểm của chủ nghĩa xã hội mác xít.
4. Nền tảng Tinh thần của Tân Chủ nghĩa Xã hội
Con người, như trên đã thấy, quan trọng là yếu tố thân xác. Nhưng thân xác không phải yếu tố duy nhất hoặc quyết định nhất. Ý nghĩa của con người tiêu biểu nhất là tinh thần, là đầu óc. Tinh thần là trí tuệ, là ý thức, là nhận thức, là các ý nghĩa và nội dung của tình cảm nhân văn cao quý. Không có những yếu tố đó con người cũng chỉ mới ở hàng sinh vật mà chưa đúng nghĩa con người thật sự. Như vậy chính yếu tố giáo dục và đào tạo là yêu cầu hay ý nghĩa quan trọng nhất. Đây là nhiệm vụ của xã hội đối với cá nhân mà cũng là bổn phận và trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội về tất cả mọi mặt. Giáo dục làm tăng cường nội dung óc não và tầm vóc óc não của con người, đó là ý nghĩa khách quan thật sự. Giáo dục qua học đường là vai trò thiết yếu nhất của xã hội đối với cá nhân, đó cũng là điều kiện đầu tiên hay tiên quyết để mỗi cá nhân tự đào tạo, rèn luyện mình về sau về mọi mặt. Ý nghĩa của tinh thần quan trọng nhất là sự hiểu biết, vì tri thức là yếu tố nền tảng tạo nên tất cả. Như vậy có nghĩa quan điểm của học thuyết tân chủ nghĩa xã hội trước hết hay ưu tiên chính là mục đích giáo dục đào tạo cho cá nhân mà không gì khác. Không phải kích động ý thức đấu tranh giữa các cá nhân nhân danh giai cấp như Mác đã làm cách sai trái, ngu dốt và nguy hiểm mà là khêu dậy trong mỗi cá nhân ý thức hợp tác, tượng trợ và lòng yêu thương, thông cảm giữa người với người lẫn nhau qua xây dựng đào tạo và giáo dục.
Giáo dục sẽ khai mở tiếp những yếu tố tinh thần khác như văn hóa, văn minh, ý thức đạo đức cá nhân và xã hội, những cảm quan về các giá trị văn học nghệ thuật, các ý thức về nhân văn trong tôn giáo và trong xã hội, sự phát triển về tư duy khoa học mọi mặt, mọi lãnh vực hay mọi phương diện. Đó là yếu tố xây dựng con người và xã hội con người hoàn chỉnh, khai phóng, giải phóng thật sự. Khi giải phóng mọi mặt về tinh thần một cách đúng đắn và đầy đủ, đương nhiên và nhất thiết cũng sẽ tạo điều kiện để giải phóng hay hoàn thiện về kinh tế dần dần từng bước. Đây là quan điểm tinh thần khai phá và hỗ trợ vật chất theo cách nhân văn, hoàn toàn trái ngược lại với quan điểm duy vật chất, duy kinh tế một cách máy móc, tầm thường hay thấp kém của Mác. Đó không phải ảo tưởng mà là hiện thực. Vấn đề được đặt trong tầm vĩ mô tổng quát chứ không phải đặt trong ý nghĩa vi mô thiếu cơ sở, theo quan niệm của Mác, là vật chất quyết định mọi yếu tố con người cá nhân. Nhận thức chính yếu ở đây là nhận thức khoa học kỹ thuật, văn minh văn hóa tạo nên động lực phát triển kinh tế xã hội chứ không phải quan niệm cơ khí kiểu duy tâm trừu tượng là hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc như Mác tầm thường hóa con người và xã hội con người hoàn toàn theo quan điểm duy vật. Chính quan điểm duy vật tầm thường của Mác lũng đoạn nhiều quan điểm cá nhân và xã hội của những người si mê theo Mác làm tai hại cho xã hội vì có nhiều nhận thức của họ bị nhiễu đi hay bị trệch hướng tai hại mà họ không tự biết. Thủ thuật của Mác là khiến con người lý luận một chiều, lòng vòng trong công thức định sẳn, mà thường người mác xít cho là khoa học lý luận. Thật ra đó là sự sai lầm và sự ngu hóa một cách tai hại nhất. Bởi vì nhận thức và lý luận của con người là sự phát huy khả năng hay năng lực sáng tạo của lý trí tùy theo tình huống cụ thể, không phải kiểu nhận thức vết mòn bằng những định đề hay tiền đề cho sẳn.
5. Nền tảng thực tiễn của lý thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội
Nói gì thì nói, đời sống con người và đời sống xã hội luôn luôn là đời sống thực tiễn. Đó chính là quan điểm nền tảng và nguyên tắc thực tế của lý thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội. Như vậy nó không thể là chủ nghĩa xã hội theo cách viễn mơ bằng cưỡng chế và bạo lực mà Mác quan niệm. Bạo lực là đi ngược lại với nhân văn, cưỡng chế là đi ngược lại nhân quyền và tự do dân chủ.
Viễn mơ là ảo tưởng và không triển vọng, đó là những quan điểm sai lầm chết người của học thuyết Mác. Tân Chủ nghĩa Xã hội hoàn toàn chủ trương ngược lại.
Đó là nguyên tắc nhân văn tôn trọng mọi sự tự do dân chủ chính đáng và thiết yếu nhất của cá nhân và xã hội. Không ai được quyền thúc ép ai trái nguyện vọng hay điều kiện của họ, như vậy phải tôn trọng lẫn nhau; đó là mặt thực tế của tất cả mọi người. Chỉ có thể hỗ trợ, giúp đỡ, không thể tùy tiện định đoạt chủ quan theo ý mình đối với người khác. Có nghĩa mỗi cá nhân là một thực tại khách quan, và xã hội cũng là thực tại khách quan, cả thế giới cũng là thực tại khách quan.
Như vậy sống là thích ứng với mọi thực tại khách quan vốn có của nó, chỉ có thể tìm cách cải thiện nó phần nào đó, không thể chủ quan thay đổi nó một cách tuyệt đối. Đó chính là quan điểm thực tiễn của lý thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội. Có nghĩa chủ nghĩa xã hội đây là một quan điểm tự giác đề cao xã hội một cách cao quý và trong sáng, không phải tổ chức xã hội theo kiểu cưỡng chế mọi phương diện nhằm phù hợp theo viễn tưởng ảo tưởng mà Mác chủ trương. Quan điểm chủ nghĩa xã hội của Mác thực chất là quan điểm phi nhân văn và phi thực tế, vì nó không thực chất nên không bao giờ đạt tới được mà chỉ khiên cưỡng diễn ra một cách giả tạo và không thực tế.
Trên thực tế, mọi hành vi con người là hành vi ý thức mà không phải hành vi vật chất hay sinh học. Sự chuyển động của mây gió, cát sạn là sự chuyển động của vật chất. Sự vận động của cây cỏ trong nội thân của nó là sự vận động sinh học thuần túy. Nhưng mọi hành vi của con người đều là những hành vi có ý thức, được điều khiển phần lớn bởi ý thức, tức là hành vi theo ý thức.
Chủ nghĩa Xã hội cũng thế, nếu không phát xuất từ thâm tâm ý thức của con người, nó không bao giờ đạt đến phần nào cả, huống gì chỉ là hình thức tổ chức hoàn toàn giả tạo theo kiểu bề ngoài. Tính cách sính hình thức, sính tổ chức về phương diện mục đích chủ nghĩa xã hội theo Mác quan niệm là như thế. Nó chỉ là ảo tưởng phi khoa học, nhưng bắt ép nhân loại phải vào khuôn phép giả tạo đó thật là tội lỗi của Mác; vì dầu có bao hi sinh vô bổ, bao phí phạm mọi mặt của xã hội cuối cùng nó cũng không thể đi tới đâu. Điều này chẳng khác gì thợ gò hàn cố gò một tấm tôn thiết vào một hình dạng nào đó theo công năng mong muốn hoàn toàn ngược lại với bản chất của nó ban đầu, như vậy phải cố cắt bỏ nhiều, phí phạm nhiều, nhưng đó chi là để phục vụ công năng chủ quan, nó hoàn toàn trái với ý muốn tự nhiên của xã hội.
Thực chất xã hội cũng như dòng nước hay không khí, nó vận động theo yêu cầu và hoàn cảnh khách quan của nó trong thiên nhiên, không ai có thể uốn nắn chủ quan được nó hoàn toàn tuyệt đối trong thực tế. Bởi vậy ý nghĩa của quan niệm Tân Chủ nghĩa Xã hội là cải thiện xã hội theo chiều hướng tích cực để luôn luôn phát triển có lợi cho mọi người, không đúc khuôn nó theo bất kỳ ý muốn duy ý chí hay chủ quan nào. Dùng khoa học để kiến tạo xã hội theo khách quan, không dùng ý thức hệ chủ quan để gò ép xã hội theo ảo tưởng và phi nhân văn, đó chính là sự khác nhau chủ yếu giữa hai quan niệm chủ nghĩa xã hội.
Trong xã hội chủ nghĩa của Mác, vì là một kịch bản có bản chất hoàn toàn giả tạo, mọi hành vi của cá nhân cũng như xã hội cũng trở thành kịch bản, thành đóng kịch giả dối. Nó khiến cho toàn thể xã hội bị cưỡng chế, bị khống chế vào trong nguyên lý chuyên chính và toàn trị; như vậy toàn xã hội bị nô lệ trong thực chất, mỗi cá nhân cũng bị nô lệ, không ai có tự do riêng chính đáng, có tư duy độc lập sáng tạo chính đáng của mình cả, kể cả những cá nhân cầm quyền trong chính xã hội đó cũng vậy. Vì tất cả phải quay theo vòng quay quán tính, chệch ra ngoài là bị văng ra không thể tồn tại được nữa nên cũng chẳng ai muốn đi ngược hay đi ra khỏi quy trình đã có, tính cách phi nhân văn mà học thuyết Mác mang lại nhưng được mệnh danh là giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, thậm chí cả giải phóng lịch sử; đó là kiểu nói thậm xưng không có chút ý nghĩa thực tế nào hết.
Trái lại chủ thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội thì hoàn toàn tôn trọng mọi tự do chính đáng thiết yếu của cá nhân và xã hội, nên không ai cưỡng chế ai, không ai thúc ép ai, không ai phải sợ hãi ai, tất cả đều bình đẳng như nhau và tự do như nhau; như vậy chỉ lấy yếu tố thiện nguyện và tự giác là chính. Đó mới là chủ nghĩa xã hội mang tính thực tế, thực tiễn, nhân văn và tự do dân chủ thực sự. Vì con người ai cũng chỉ có một đời duy nhất và mỗi thế hệ chuyển tiếp nhau.
Như vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu máy móc, tổ chức hình thức và toàn trị trong tương lai không những phi thực tế, vô lối mà thực chất còn dã man và tàn ác. Vì không ai muốn chặt tay chân mình trong hiện tại để hi vọng trong tương lai tay chân đó sẽ mọc ra lại hữu ích hơn, đẹp đẽ hơn. Đây quả thật là tính cách điên loạn trong tư tưởng quan niệm của Mác mà không ai dám nói ngược lại. Đó là kiểu bỏ mồi bắt bóng, dồn hết cả mọi hi sinh cho thời kỳ gọi là quá độ nhưng chẳng khác gì dã tràng xe cát khi từng đợt sóng biển mới lại hoàn toàn xóa hết. Đó chẳng khác việc có ai đó muốn luyện tập thân xác để mọc cánh mà bay trên không, trong khi con người chỉ có thể bay được trên không bằng sáng tạo công cụ kỹ thuật như máy bay, tàu lượn phù hợp theo các nguyên tắc cơ học chất lỏng mới có thể thực hành được. Ảo tưởng về chủ nghĩa xã hội của Mác chẳng qua do sự mê tín vào quy luật biện chứng được Mác áp dụng một một cách trái khoáy, ảo tưởng mà ông ta không tự biết hay làm bộ như không biết.
Như vậy trong quan điểm thực tiễn của Tân Chủ nghĩa Xã hội, con người chỉ có thể dựa vào khoa học khách quan, dựa vào đào tạo giáo dục để xây dựng con người lý tưởng; từ đó tạo ra xã hội lý tưởng một cách tương đối ngay trong hiện tại mà không phải cầu toàn trách bị theo kiểu ảo tưởng về tương lai như Mác đã khùng điên hay ngu dốt không nhận ra được. Từ đây Tân Chủ nghĩa Xã hội không còn mang ý hướng viễn mơ ảo tưởng như của Mác nữa mà là hoàn toàn thực tiện và thực tế trong đời sống cụ thể của cá nhân và xã hội. Có nghĩa xã hội chỉ chú trọng hai chiều hướng quyết định chính là chiều hướng nghiên cứu khoa học và chiều hướng ứng dụng khoa học, tức chiều hướng lý thuyết và chiều hướng ứng dụng thực tiễn. Phải nghiên cứu lý thuyết khoa học mọi phương diện, vì đó là yêu cầu chất liệu cho chủ nghĩa xã hội thực tế. Phải khai triển, áp dụng thành tựu khoa học mọi loại vào đời sống thực tế, đó là ý nghĩa thực hiện hay ý nghĩa hiện thực của chủ nghĩa xã hội theo cách khoa học thiết thực và hiệu quả ngay trong hiện tại mà không phải đẩy tới mức mịt mù viễn mơ trong một tương lai ảo tưởng nào đó. Vậy nên toàn bộ con người trong xã hội đều được giúp đỡ, được huy động, và được khai triển ra trong hai hướng chính yếu này tùy khuynh hướng, năng lực, ngành nghề, sở thích, tùy hoàn cảnh và điều kiện cá nhân và xã hội cùng cho phép và phù hợp. Đây là cả một bài toán tổ hợp được giải quyết hoàn toàn thực tế và hiện thực không theo bất kỳ nguyên tắc tiền chế máy móc hay huyễn hoặc nào cả. Tính cách khoa học, tính cách thực tiển, tính cách áp dụng và khai triển linh hoạt của học thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội đối với xã hội và con người chỉ hoàn toàn đơn giản, hiệu quả, và hoàn toàn tực tế kiểu như thế.
Vì hoàn toàn không theo cách ảo tưởng viễn mơ, Tân Chủ nghĩa Xã hội cũng không cần kỹ thuật tổ chức cưỡng chế bất cứ cá nhân nào cả, không cần tuyên truyền giả tạo nhằm phỉnh gạt hướng tới mục đích cứu cánh ảo tưởng mà các xã hội mác xít thường làm. Như thế không phải ai sợ hãi trong xã hội; không phải ai đóng kịch trong xã hội; không phải ai cần giả dối trong xã hội. Tất cả đều được tự do dân chủ, tất cả đều được phản biện đối với mọi vấn để lý thuyết cũng như thực tiễn một cách công khai và thẳng thắn trong xã hội. Không ai bị cấm đoán điều gì trong thiện chí và ích lợi; bởi vậy thông tin báo chí chính đáng được hoàn toàn tự do, không bị bưng bít, không bị lèo lái, không bị ước thúc mà hoàn toàn tự do đóng góp và sinh hoạt.
Một xã hội như vậy mới là xã hội dân chủ tự do thật sự, mới là xã hội nhân văn thật sự, hoàn toàn ngược lại với xã hội nhân văn trá hình hay nhân văn ảo giác mà chính Mác từng đề ra một cách hoàn toàn sai trái và tai hại cách đây đã hơn hai thế kỷ. Nếu khi đó Mác đã tự hào chỉ viết Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản trong vòng một tuần lễ theo yêu cầu đặt hàng và đáp ứng thời gian cho đại hội đảng, ở đây thật ra bài viết phóng bút này cũng chỉ được viết trong vòng 8 tiếng đồng hồ nhưng theo hướng khác, tức hướng hoàn toàn ngược lại với chủ thuyết toàn diện của Mác. Điều đó cũng chẳng có điều gì đáng nói vì khi đó Mác còn phải viết tay trong khi xã hội ngày nay người ta chỉ cần gõ vi tính theo tốc độ giúp đỡ của máy móc hiện đại. Đấy sự phát triển của khoa học kỹ thuật ăn đứt quan niệm về ý thức hệ kiểu cổ thời của Mác là như thế.
Tất nhiên đây chỉ là cách viết chơi để thăm dò dư luận. Hy vọng khi được công khai hóa trên mạng sẽ có nhiều người tò mò tìm đọc. Bởi vì đây là cách viết trực nhận, không phải cách viết theo lối khảo cứu hay biên khảo thông thường nên cũng không cần tài liệu tham khảo nào cả, không cần trích dẫn hay nại ra trong chứng minh tài liệu nào. Bởi vì đây chỉ là cách viết tốc lực và cách viết chay theo cảm nghĩ nếu có thể mệnh danh như vậy. Tuy nhiên độ chính xác của nó về mặt lập luận và cơ sở khoa học và triết học của nó là hoàn toàn không thể nghi ngờ được. Vì nó được viết một cách chân thành và giản dị, không làm dáng, không khoa trương mà chỉ vì mục đích xã hội thực chất và nghiêm túc. Đó là ý nghĩa để mọi người không vô ích để đọc và có thể gợi ra nhiều bình luận hoặc phản bác hay phản biện có liên quan một cách hữu ích. Thật ra, với tính cách người làm khoa học và người làm triết học trong lãnh vực lý thuyết về nhân văn và xã hội, ở đây không hề có tham vọng hay yêu cầu chính trị nào cả. Điều này cũng hoàn toàn giống như làm một bài thơ thế thôi. Làm cho vui và làm vô tư vô cầu là chính. Nhưng nếu có ai đó nhân tiện tìm hiểu để tự nhận thức, tự tư duy, tự áp dụng theo cách riêng nào đó theo họ, kể cả mọi người cộng sản mác xít hiện nay thì cũng thật là điều quá tốt. Bởi vì chân lý khách quan thì không nên che giấu ai, không nên chỉ bảo thủ riêng cho mình, mà chỉ như hương thơm hay phấn hoa được lan tỏa ra trong xã hội thì điều đó cũng còn gì thú vị và bổ ích cho bằng.
Đây cũng không phải chủ đích hoặc chủ yếu đưa ra hay khuếch diễn một thứ “chủ nghĩa” nào cả, mặc dầu tiêu đề của nó có phần hàm ý hay gợi cho người ta có thể nghĩ hoặc đánh giá như vậy dầu nó có thể sai hoặc có thể đúng. Vì ý niệm “chủ nghĩa” đã qua gần một thế kỷ rồi gây biết bao sợ hãi và tàn phá, mất mát trên toàn thế giới trong mọi loại của nó cho tới ngày nay, như chủ nghĩa quốc xã, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa ý thức hệ v.v., nên ngày nay người chính đáng cũng không còn ai ham hố “chủ nghĩa” làm gì hay cố gắng và nổ lực đưa ra các ý tưởng hay nội dung “chủ nghĩa” mới làm gì. Tuy nhiên học thuyết khoa học thì lại hoàn toàn vô hại. Học thuyết có thể đúng hay sai, có thể được phê phán và xây dựng bằng mọi cách. Trong khi đó “chủ nghĩa” thì thường chủ quan, cố chấp, cưỡng chế, đó là điều khiến người ta thất vọng và thật sự cũng chẳng ai ham hố gì nữa trừ các trường hợp giả đò hay đóng kịch.
Cho nên đây là một bài viết mang tính chất vui chơi, vì thú chơi nào lại chẳng có mất thì giờ hoặc mất công sức ít nhiều nào đó. Ngày nay có máy vi tính nên mọi nhọc mệt viết lách bằng con chữ viết tay trong thời xa xưa cũng đã cải thiện rất nhiều rồi so với hiện tại. Nói khác đi đây là bài viết có nội dung hoàn toàn nghiêm túc, vì khoa học và triết học thật sự đúng nghĩa thì bao giờ cũng nghiêm túc. Tuy nhiên hình thức hay ngoại dạng của nó chỉ là một bài viết chơi. Dù là được trình bày nghiêm túc mà mục đích chính yếu của nó vẫn chỉ một bài viết chơi là như thế. Viết chơi nhưng đọc lại bổ ích; điều đó cũng còn tùy theo người đọc. Bởi vì thật sự ở đây không dám múa rìu qua mắt thợ hay kiểu múa gậy vườn hoang đối với bất cứ ai, nhưng đây chỉ là sự giao tiếp xã hội cần thiết mà những ai nghiêm chỉnh đều có thể nghĩ như vậy.
Mặt khác, đúng ra bài viết này có thể thêm nhiều mục về yếu tính của Tân Chủ nghĩa Xã hội nữa, thay vì chỉ có 5 mục chính yếu như đã nêu trên. Thế nhưng người viết thấy chi tiết hóa ra thêm lại thành thiếu tập trung hoặc thành loãng, do vậy thấy trước nhất và hiện thời chỉ cần nêu đủ năm ý hướng hay tiểu mục như vậy là đủ. Bất kỳ ai nếu thích vẫn có thể bổ sung, thêm thắc hay chi tiết hóa thêm. Điều đó chẳng hại gì cả mà còn được thật tâm khuyến khích. Bởi như thế nó lại trở thành công việc và ước vọng tập thể của rất nhiều người dù thuộc khuynh hương tư duy hay quan điểm chính trị thế nào thì còn có gì bằng. Tuy nhiên, khi chỉ nêu ra 5 điểm chính, đó là người viết muốn lấy con số 5 làm chuẩn. Bởi như mọi người biết, toán học hình học không gian phẳng được chia làm 4 hướng chính, cộng thêm hướng của chiều thứ 3 của không gian lập thể, vậy là ta có số 5 là con số tròn đầy, đẹp đẽ nhất. Hay như về phương diện nhân hình, đầu người là cơ quan quyết định tinh hoa con người nhất, thế mà nhìn vào mặt người, tức tiền đình hay mặt tiền của đầu, quả nhiên có hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi, cái miệng, là 4 cơ quan giao tiếp với vũ trụ tồn tại bên ngoài qua năng lực của thính giác, thị giác, hơi thở, và cái miệng như là yếu tố sinh tồn thiết yếu, thế là đủ 4 bộ phận cơ bản cho sự sống. Nhưng nhìn vào cái trán, đó là tiêu biểu cho óc não, cơ quan thần kinh sọ não bên trong, là trung tâm chỉ huy cao nhất và thống nhất của tất cả, vậy chẳng phải số 5 là con số biểu tượng một cách đặc biệt và lạ lùng nhất hay sao. Đó là lý do chỉ xin đề ra 5 tinh túy của Tân Chủ nghĩa Xã hội theo nghĩa vừa khoa học vừa triết học mà không gì khác.
Học thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội chỉ để tôn giáo và siêu hinh học của triết học ra bên ngoài mà không thể động đến nó. Bởi vì nó ngoại càn khôn, không thể khẳng định hay phủ định được theo ý nghĩa cụ thể thông thường của khoa học hiện thực. Điều đó rất khác với quan điểm của Mác, chỉ dồn hết mọi cái vào cái vỏ duy vật, biến tinh thần con người cũng thành vật chất, tầm thường hóa toàn bộ lịch sử và hiện thân xã hội cũng xuống hàng vật chất, thật là một quan điểm triết học đầy tính phản động và phản nhân văn mà lịch sử loài người từ trước đó hoàn toàn chưa có. Đó chính là sự tầm ruồng và sự lệch lạc cũng như thiển cận, thô lậu hay nông cạn của Mác. Nên tuy học thuyết Tân Chủ nghĩa Xã hội là học thuyết nhân văn, tức nhân bản, thực tế, duy khoa học, nhưng phần nào cũng duy tâm nhưng lại không đưa phạm trù duy tâm vào các dữ kiện khoa học khách quan của đời sống cụ thể.
Điều đó đó tránh được mọi nghịch lý giữa cái vô hình và cái hữu hình, tránh được sự nghịch lý giữa lý tưởng và hiện thực, tránh được sự nghịch ý có khi cũng xảy ra giữa khoa học thực nghiệm và triết học thuần lý về mặt tư duy. Như vậy đây là học thuyết hay lý thuyết khoa học xã hội và khoa học nhân văn hoàn toàn, hoàn toàn theo ý nghĩa đầy đủ và tuyệt đối cụ thể. Đây cũng là ý nghĩa mà ngày xưa một bậc thánh Á Đông là Khổng tử từng nói kính quỷ thần như viễn chi. Chuyện siêu trần tục thì phải tôn trọng nhưng không nên đưa vào những yêu cầu thực tế của trần tục.
Ấy thế nên quan niệm tam tài Thiên Địa Nhân của người xưa cũng không phải vô lý. Trời là cái siêu hình bao gồm tất cả, đất là cái nền tảng thực tế của tất cả. Nhưng chính con người mới là yếu tố nhân văn linh hoạt và nối lại được tất cả. Nói thế không phải nệ cổ, vì tư duy của con người luôn cần được khai phá mới và sáng tạo.
Tân Chủ nghĩa Xã hội chỉ là mục đích như thế, chủ trương như thế, lấy đời sống làm thực tại cụ thể, đời sống cá nhân cũng như đời sống xã hội, lấy khoa học thực nghiệm làm nền móng cụ thể, nhưng lấy triết học khai mở làm ý nghĩa cụ thể của nhân gian và vạn vật. Nên mọi người khi đọc vào bài viết ngẫu hứng và có hơi “tếu” này cần nên thận trọng suy nghĩ sâu xa và nghiêm túc. Đây là hình thức của một bài viết đùa cho vui, nhưng thực chất nội dung của nó hoàn toàn chuyên sâu nếu có thể nói được như vậy.
Khoa học và triết học nghiêm túc luôn luôn phát triển qua lịch sử phát triển của loài người. Ai cũng có thể trở thành một đứa bé di dạo chơi trên bờ biển, và việc nhặt nhạnh những vỏ sò vỏ ốc quả là điều hấp dẫn và thú vị biết bao. Đừng ai nghĩ mình là nhà khoa học hay nhà triết học, nghĩ mà không phải hay không làm được như thế đó là điều không ích lợi, nhưng không nghĩ mà vẫn nổ lực dấn thâần vào lãnh vực khoa học và triết học mới thật sự ích lợi không riêng cho bản thân mình mà còn chung cho toàn xã hội.
Ý nghĩa sâu xa và toàn thiện nhất của cái được gọi là Tân Chủ nghĩa Xã hội ở đây chính là như vậy.
19/11/2016
Tác giả Võ Hưng Thanh là bạn đọc thường xuyên góp ý trên DCVOnline với biệt danh Đại Ngàn
© DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập, minh hoạ và phụ chú.
DCVOnline: Đã viết “… đây chỉ là cách viết chơi để thăm dò dư luận […] không cần tài liệu tham khảo nào cả…”, và tác giả cũng cho rằng, “Điều này nếu đến nay tôi không nói thì cũng sẽ chẳng bao giờ có ai nói tới.”
“Điều này” trong bài viết là Tân Chủ nghĩa Xã hội.
Trên thực tế thì Tân Chủ nghĩa Xã hội, neo-socialism, một nhánh của Chủ nghĩa Xã hội đã xuất nhiện ở Pháp, và Bỉ từ những năm 1930, gồm một số người có khuynh hướng xét lại của Chi bộ Công Nhân Quốc tế Pháp quốc. Dẫn đầu khuynh hương Tân Chủ nghĩa Xã hội là Henri de Manin (Bỉ) và Marcel Déat, Pierre Renaudel, René Belin ở Pháp.
Ở thế kỷ 21, một trong nhiều tác giả đã sơ luận về Tân Chủ Nghĩa Xã hội là Gerald A. Cohen qua luận văn 83 trang khổ nhỏ tựa đề “Why not Socialism?” (Priceton Press, 2009). Một tác giả khác, Jonny Thakkar, đã đăng bản thảo “Neo-Socialism – A Sketch” (March 2016, 33 trang) bàn về Tân Chủ nghĩa Xã hội cùng nhận định những thiếu sót trong luận văn của Cohen. Tuy nhiên những nét chính của neo-socialsm trong 2 luận văn “Tại sao không Chủ nghĩa Xã hội” của Cohen và “Tân Chủ nghĩa Xã hội – Bản phác thảo” của Jonny Thakkar không phải là những điều tác giả Võ Hưng Thanh trình bày trong bài viết trên đây.
Hiện nay, ở phương Tây, khi nói đến “xã hội” người ta ít khi thấy chủ nghĩa của Karl Marx, thay vào đó là những chính sách xã hội các nước phương Tây, từ châu Âu sang châu Mỹ. Như ở Mỹ với chính sách của đảng Dân chủ (chính sách Barack Obama, hay như Bernard Sanders trình bày với cử tri Hoa Kỳ trong cuộc bầu cử sơ bộ vừa qua), hoặc những chính sách xã hội ở Canada đã có từ nhiều năm qua. Mỹ và Canada, và những nước châu Âu, đặc biệt là Bắc Âu, đều là những quốc gia theo chế độ dân chủ với n ền kinh tế thị trường.
Tác giả Võ Hưng Thanh (hay Ngàn) đã ráng hết mình chỉ ra cho mọi người thấy sự lầm lẫn tai hại của Marx nhìn ở mọi góc cạnh. Kinh tế và chính trị tuy gắn liền nhau và là hai mặt không thể thiếu trong mọi xã hội nhưng lại là hai phạm trù hoàn toàn độc lập trong bản chất. Lý luận của Marx phản khoa học về mặt kinh tế, trật đường rày về các quy luật vận động tự nhiên của chính trị, vốn phụ thuộc hoàn toàn vào các giá trị nhân văn và cấu trúc của xã hội. Lý luận của Marx là một lý luận bịp bợm và chỉ là một phương tiện để các những tên cơ hội sử dụng trong mưu cầu tranh dành quyền lực và duy trì quyền lực ở quá khứ cũng như ở hiện tại. Chính sự lợi dụng lý luận sai lầm của Marx để có quyền lực là nguồn gốc của mọi thảm họa cho nhân loại trong suốt gần một trăm năm qua.
Nói một cách khác, giá trị thật sự của chủ nghĩa Marx là đem đến thảm họa tàn phá chết chóc cho nhân loại một cách nhanh nhất! Cám ơn tác giả và DCV Online!
NTrD
Nhân đây, xin được nhấn mạnh thêm, bài viết trên của tác giả Võ Hưng Thanh (hay Ngàn) tỉ mỉ và khúc chiết, đòi hỏi sự am tường thấu suốt vấn đề từ người viết. Mỗi đoạn văn đều có một giá trị riêng của nó và nếu như chúng ta đọc quá nhanh, chỉ lướt qua thì sẽ khó mà gôm hết được toàn bộ ý nghĩa trình bày. Một bài viết tỉ mỉ thì cần một người đọc tỉ mỉ là một điều đương nhiên.
Riêng nói về Marx, đoạn văn sau đây của tác giả rất có giá trị, từ cái nhìn bao quát đến chi tiết thực tiễn, rất hiếm người viết chịu khó diễn giải, kính xin được trích ra để lưu ý quý vị đọc giả:
“Trong xã hội chủ nghĩa của Mác, vì là một kịch bản có bản chất hoàn toàn giả tạo, mọi hành vi của cá nhân cũng như xã hội cũng trở thành kịch bản, thành đóng kịch giả dối. Nó khiến cho toàn thể xã hội bị cưỡng chế, bị khống chế vào trong nguyên lý chuyên chính và toàn trị; như vậy toàn xã hội bị nô lệ trong thực chất, mỗi cá nhân cũng bị nô lệ, không ai có tự do riêng chính đáng, có tư duy độc lập sáng tạo chính đáng của mình cả, kể cả những cá nhân cầm quyền trong chính xã hội đó cũng vậy. Vì tất cả phải quay theo vòng quay quán tính, chệch ra ngoài là bị văng ra không thể tồn tại được nữa nên cũng chẳng ai muốn đi ngược hay đi ra khỏi quy trình đã có, tính cách phi nhân văn mà học thuyết Mác mang lại nhưng được mệnh danh là giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, thậm chí cả giải phóng lịch sử; đó là kiểu nói thậm xưng không có chút ý nghĩa thực tế nào hết.”
Do đó, suy luận theo đúng những gì tác giả viết trong đoạn văn này, đi theo chủ nghĩa Marx, không những là chạy theo hoang tưởng mà còn tự mình phải giết chết nhận thức của chính mình để tồn tại.
Và nếu cả xã hội, bởi vì cố gắng tồn tại trong hoang tưởng nên cố gắng triệt tiêu mọi nhận thức về thực tiễn và tự nhiên, thì sự chậm tiến lạc hậu sẽ đến một cách hiển nhiên; cũng như giả dối và tàn bạo đương nhiên sẽ trở thành là hai phương tiện duy nhất để sinh tồn khi cố triệt tiêu nhận thức.
Cội nguồn của ác láo mà tất cả các chế độ Cộng Sản, vốn là hiện thân của chủ nghĩa Marx đem lại, đã được tác giả chỉ ra rất rõ ràng từ đoạn văn trích dẫn trên.
Một lần nữa, cám ơn tác giả đã cất công viết một bài viết tỉ mỉ chu đáo như thế này.
NTrD